PDA

View Full Version : Quán văn chương !



TNDH
04-07-2008, 10:15
http://img523.imageshack.us/img523/1569/panoqw8.jpg

CHÂN DUNG NHÀ VĂN
http://img50.imageshack.us/img50/3359/xsachgn9.jpg
Xuân Sách

Năm 1992, nhà xuất bản Văn Học có giới thiệu tác phẩm: Chân dung nhà văn của Xuân Sách. Tác phẩm là 99 bài thơ dù đặc tả chân dung 99 văn nghệ sỹ đương đại nhưng đa phần lại không nêu tên những người được tả.

Tuy vậy:
Người trong cuộc đọc là hiểu,
Người hay xem sách đọc là nhận ra,
Người ít đọc (như tớ) thì bài nhận; bài không,
Người không hay đọc, biết… chết liền !

Dưới đây là 99 bài đặc tả, bạn nào nhận ra chân dung ai xin post cho mọi người cùng biết !

1.
Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem

2.
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.

3.
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền Tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.

4.
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên Thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say.

5.
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh sáng bác nhầm thôi
Bới tung đống đống rác nên trời phạt
Trời phạt chưa xong bác đã cười.

6.
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền.

7.
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị già quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Đừng nên xấu hổ khi nói dối
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu

8.
Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà không mới
Riêng còn chẳng có, có gì chung.

9.
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa sầu

10.
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa

Thay đổi cả cơn mơ
Ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống
Mặt anh em trong suối cạn hội nhà văn

11.
Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bạn cách phương trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nối đời.

12.
Nên danh nên giá ở làng
Chết vì ông lão bên hàng xóm kia
Làm thân con chó xá gì
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.

13.
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua vui
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.

14.
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.

15.
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan.

16.
Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Quay về núp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào
Văn Ngan?

17.
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.

18.
Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò.

19.
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn

20.
Trường Sơn đông em đi hái măng
Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! Giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!

21.
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên cái gốc già.

22.
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc lâu ngày mất cả tên.

23.
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cánh rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.

24.
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U Minh.

25.
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi Đất Quảng lẫn rừng Xà Nu.

26.
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thân ông lão vịt trời phải chăn.

27.
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi...”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người.

“Áo sờn thay chiếu anh về đất”
Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

28.
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
Biết ông sằng phẳng tự bao giờ
Cái con thò lò quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ.

29.
Cha và con... và họ hàng và...
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng ba ở Tây Nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát!

30.
Đường chúng ta đi trong gió lửa
Còn mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm.

31.
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.

32.
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay

33.
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mặn kéo cày cho xong.

34.
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia tiền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.

35.
Em còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo!

36.
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Volga
Trên đời kim cương là quí nhất
Thứ đến tình thương dân nghèo ta
Em chớ cho anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn Honda.

37.
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vàng ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.

38.
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Đốt lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a kai ơi
Ngủ ngon a kai à...

39.
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời tháng năm
Trong làng kháo chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đầy kho.

40.
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.

41.
Đôi vai thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng ven đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của em.

42.
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
Xác xơ màu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.

43.
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.

44.
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bạn cũ chẳng còn ai.

45.
Đã đi qua một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.

46.
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.

47.
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết một mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc là trúng nghị viên thôi.

48.
Ông năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường Sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm.

49.
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảnh đất này hoa héo khô.

50.
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn trong vây.

51.
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay.

52.
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi, đừng sang.

53.
Biên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.

54.
Anh chẳng còn sống mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người còn lại
Bốn năm sau khóc oà.

55.
Chim chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng nháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.

56.
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ An khô cằn
Bao nhiêu năm nằm vạ
Trước cửa hội nhà văn.

57.
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tận thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.

58.
Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió, ngày là Hồ Tây.

59.
Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.

60.
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi ra đi những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?

61.
Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
Liệu Hạng Võ có lên ngôi hoàng đế?
Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ
Đời còn gì, và thơ cũng thế.

62.
“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi”
Nay tôi yêu quê hương vì có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.

63.
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi dậy
Mây che một khung trời

Đất sau mưa hỡi đất
Màu mỡ trôi về đâu
Còn trơ chiếc guốc võng
Trăng mài mòn canh thâu.

64.
Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lóc chốn rừng già
Quay về khứng chịu cơn mưa móc
Đất trắng mưa rồi đất lại khô.

65.
Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.

66.
Người đi, ừ nhỉ người đi thật
Đi thật nhưng người lại trở về
Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.

67.
Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết ở chiến trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.

68.
Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác còn trong lao
Bởi nghe lời mẹ dăn
Nên suốt đời lao đao.

69.
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việc Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây.

70.
Tay em cầm bông bần li
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.

71.
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về hội nhà văn
Ừ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trong một chiếc xe tăng.

72.
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lí gập gềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ.

73.
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực mấy hồi
Ai?
Chẳng ai đáp lại lời của tôi.

74.
Anh đã đứng trước biển
Cù Lao Chàm kia rồi
Nhưng khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.

75.
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo

Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ thì ra tay.

76.
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông Hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Còn đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.

77.
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái

Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mĩ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!

78.
Anh đứng thành tro em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi với vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.

79.
Ôi màu tím hoa sim
Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tím mấy ngàn chiều hoang biền biệt.

80.
Kòn trô dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.

81.
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn

82.
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát

Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết!

83.
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?

84.
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi.

85.
Thiên thai từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca.

86.
Khi về xuôi anh mang theo
đồng bạc trắng hoa xoè
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
vì giấy giá thú chửa làm xong.

87.
Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đầu chày đít thớt đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết phim

88.
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vạn dặm khuất trùng mây
Lui về kí ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.

89.
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ôi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông Hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ôi!

90.
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên sứ đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.

91.
Giặc giã yên rồi
về xoay khối vuông Ru bích
Đoán hậu vận rủi may
thưa quí vị, xin mời
Xanh tím trắng đỏ vàng đều đủ hết
Ta cùng vào cuộc chơi
Không gian bốn năm chiều
thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật giả trắng đen
Tôi như cục xà bông thứ thiệt
Cứ đổ rượu vào
hình quí vị sẽ hiện lên.

92.
Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa
suốt dặm dài
Mở đột phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.

93.
Ba lô trên vai từ đêm mười chín
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đó cụ già Khương?

94.
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà mẹ đào hầm đầu bạc phơ phơ

Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu nhiều lần bị lừa như thế
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao!

95.
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.

96.
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng kia đã lặn phải chong đèn dầu.

97.
Giấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
Mấy ai biết được hương thầm của cô gái xóm đê.

98.
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
Biển một bên và em một bên.

99.
Người đàn bà mà tôi ao ước
Trên vành đai chống Mĩ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng kí ức
Nhưng còn đây tội lỗi đến bao giờ

tiểu dân
04-07-2008, 12:12
Cho Tiểu Dân mở hàng 10 bài đầu, chỉ nhận được vỏn vẹn vài người thôi, toàn là người đã nhẵn mặt từ hồi học phổ thông (nghĩa là tác giả, tác phẩm ... trong luồng):

1. Hồ Phương (Bây giờ mới nhớ ra tác phẩm đầu tay của nhà văn, nhà thơ này)
2.
3. Tô Hoài
4. Nguyên Hồng
5. Nguyễn Công Hoan
6. Huyền Chi
7. Huy Cận
8. Xuân Diệu
9.
10. Chế Lan Viên

Chỉ dám mua có bấy nhiêu thơ, mong quán thơ của anh đắt khách :)

dly
04-07-2008, 13:16
Biết chết ........... liền :D

TNDH
04-07-2008, 13:41
Cho Tiểu Dân mở hàng... mong quán thơ của anh đắt khách :)

còn “nợ” ai kia tiếng trách người
“về làng chẳng dọn rác
thì thôi
ti vi, tủ lạnh
ai đời phá"
một tiếng thanh minh cũng
bặt lời!

rác rưởi vẫn đầy vẫn-i-nguyên
mặc đời...

bởi lỡ đã say duyên
quán mở cho vơi...
nào mong khách
bạn ghé
lòng ta
bớt muộn phiền
:innocent:

tran_phong
04-07-2008, 16:00
cái này phải nhờ bác TNDH giải đáp tại 81 :D

tiểu dân
04-07-2008, 16:21
Em nghèo lắm quý ti-vi tủ lạnh
Anh dư dùng sao chẳng để phần em?
Buông tiếng trách,
lẽ nào
là không phải?
Mà nỡ trách đâu!
Chỉ ...
tiếc thôi!
Nay anh về lại
duyên
còn nặng

Đồ cũ phá rồi
đồ mới chơi vơi
bắt đến anh
chờ người
phen kiến tạo

[=========> Bổ sung bài viết <=========]

Hix, google lợi hại thiệt, đã nhận đủ 99
Với cái vốn văn học cấp 3 chưa tốt nghiệp nổi của mình thì không biết đến bao giờ mới nhận được hết 100 vị này nữa!

binhson50
04-07-2008, 19:43
1. Hồ Phương
Trên biển lớn mênh mông sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.
2. Nguyễn Đình Thi
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.
3. Tô Hoài
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.
4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say
5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
Bới tung đống rác nên trời phạt
Trời phạt chửa xong bác đã cười.
6. Nguyễn Tuân
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.
7. Huy Cận
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gày quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!
8. Xuân Diệu
Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà không mới
Riêng còn chẳng có, có gì chung.
9. Tế Hanh
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa sầu.
10. Chế Lan Viên
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng son từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi
sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ,
ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống
Mặt anh em trong suối cạn
Hội nhà văn
11. Nguyễn Thi
Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bến cách phương trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nổi đời.
12. Kim Lân
Nên danh nên gía ở làng
Chết về ông lão bên hàng xóm kia
Làm thân con chó xá gì
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.
13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua cười
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.
14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.
15. Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan
16. Vũ Tú Nam
Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Con về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào:
Văn Ngan
17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.
18. Đỗ Chu
Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò
19. Xuân Quỳnh
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chòi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn
20. Phạm Tiến Duật
Trường sơn đông em đi hái măng
Trường sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!
21. Nguyễn Thành Long
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lặng lẽ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên đến lúc già.
22. Đào Vũ
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc đâu rồi mất cả tên
23. Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cành rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.
24. Nguyễn Văn Bổng
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.
25. Nguyên Ngọc
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu
26. Vũ Thị Thường
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn
27. Quang Dũng
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người
Áo sờn thay chiếu anh về đất
Mây đầu ô trắng, Ba vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
28. Mai Ngữ
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
Biết ông sòng phẳng tự bao giờ
Cái con thò lò quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ
29. Nguyễn Khải
Cha và con và... họ hàng và...
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát1
30. Hoàng Trung Thông
Đường chúng ta đi trong gió lửa
Còn mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm
31. Chính Hữu
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.
32. Thanh Tịnh
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay.
33. Chu Văn
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mới kéo cày cho xong.
34. Ngô Tất Tố
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.
35. Nam Cao
Anh còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn sao vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho Thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo.
36. Xuân Thủy
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Vonga
Trên đời kim cương là quý nhất
Thứ đến tình thương dân nghèo ta
Em chớ chê anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn Honđa.
37. Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.
38. Nguyễn Khoa Điềm
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a Kai ơi
Ngủ ngon a Kai à...
39. Nguyễn Kiên
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời tháng năm
Trong làng kháo chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đày kho.
40. Anh Thơ
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.
41. Xuân Thiều
“Đôi vai” thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng con đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của em.
42. Nguyễn Thị Như Trang
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
Xác xơ mầu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.
43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.
44. Nguyễn Thế Phương
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bến cũ chẳng còn ai.
45. Vũ Trọng Phụng
Đã qua đi một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.
46. Xuân Thiêm
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.
47. Đào Hồng Cẩm
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc hẳn là trúng nghị viên thôi.
48. Nguyễn Quang Sáng
Ông Năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm.
49. Hoàng Văn Bổn
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảng đất này hoa héo khô.
50. Phù Thăng
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn trong vây.
51. Nguyễn Thị Ngọc Tú
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay
52. Vũ Cao
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang
53. Phan Tứ
Bên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.
54. Nguyễn Huy Tưởng
Anh chẳng còn sống mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người ở lại
Bốn năm sau khóc oà.
55. Thu Bồn
Chim Chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng cháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.
56. Bùi Hiển
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ an khô cằn
Bao nhiêu năm “nằm vạ”
Trước cửa hội nhà văn.
57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.
58. Nông Quốc Chấn
Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió, ngày là hồ Tây.
59. Thế Lữ
Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.
60. Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi đi ra những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?
61. Phạm Huy Thông
Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
Liệu Hạng Vũ có lên ngôi hoàng đế
Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ
Đời chẳng còn gì, và thơ cũng thế.
62. Giang Nam
“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm”
“Có những ngày trốn học bị đòn roi”
Nay tôi yêu quê hương về có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.
63. Bằng Việt
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi đến
Mây che một khung trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc vàng
Trăng mài mòn canh thâu.
64. Nguyễn Trọng Oánh
Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lội chốn rừng già
Quay về không chịu ơn mưa móc
Đất nắng mưa rồi đất lại khô.
65. Nguyễn Xuân Sanh
Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.
66. Thâm Tâm
“Người đi, ờ nhỉ, người đi thật”
Đi thật nhưng rồi lại trở về
Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.
67. Nguyễn Huy Thiệp
Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết tại chiến trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.
68. Phùng Quán
Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác ở trong lao
Bởi nghe lời mẹ dặn
Nên suốt đời lao đao.
69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây.
70. Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần ly
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước lúc rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.
71. Hữu Thỉnh
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về hội nhà văn
Ờ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trên một chiếc xe tăng.
72. Trần Bạch Đằng
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý gập ghềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ
73. Nguyễn Duy
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực suốt đời
Ai?
Chẳng ai đáp lại lời của tôi.
74. Nguyễn Mạnh Tuấn
Anh đã đứng trước biển
Cù lao Chàm kia rồi
Nhưng khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.
75. Trần Mạnh Hảo
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo
Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ mày ra tay
76. Hoàng Cầm
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.
77. Lê Lựu
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái
Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mỹ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi1
78. Vũ Quần Phương
Anh đứng thành tro... em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.
79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
Nhuốm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tìm mãi nghìn
chiều hoang
biền biệt
80. Lý Văn Sâm
Kiên Trì dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.
81. Tản Đà
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giộc mộng con suốt một thời bơ vơ
Tiếc chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.
82. Lưu Quang Vũ
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết1
83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?
84. Minh Huệ
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi
85. Văn Cao
Thiên thai - từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca
86. Ma Văn Kháng
Khi xuôi anh mang theo
Đồng bạc trắng hoa xòe
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
Năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
Vì giấy gía thú chửa làm xong
87. Vũ Bão
Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đàu chày đít thớt đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết phim.
88. Hồ Dzếnh
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vẫn lẩn khuất trong mây
Lui về ký ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.
89. Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi!
90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên số đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.
91. Thanh Thảo
Giặc dã yên rồi về
xoay khối vuông Ru bích
Đoán vận rủi may
Thưa quý vị, xin mời1
Xanh tím trắng đỏ vàng đều rõ hết
Ta cùng vào cuộc chơi.
Không gian bốn năm chiều,
thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật gỉa trắng đen
“Tôi như cục xà bông thứ thiệt”
Cứ đổ rượu vào
hình quý vị sẽ hiện lên.
92. Trần Dần
Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa
suốt dặm dài
Mở đợt phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.
93. Khương Hữu Dựng
Ba lô trên vai từ đêm mười chín
“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đấy cụ già Khương?
94. Bùi Minh Quốc
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà cụ đào hầm đầu bạc phơ phơ
Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu thân thể mang đày thương tích
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao1
95. Ý Nhi
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.
96. Yến Lan
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng xưa đã lớn, phải chong đèn dầu
97. Phan Thị Thanh Nhàn
Dấu một chòm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
Mấy ai biết hương thầm của cô gái xóm đê.
98. Trần Đăng Khoa
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
“Biển một bên và em một bên”.
99. Hoàng Lại Giang
Người đàn bà một thời tôi ao ước
Trên vành đai Mỹ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng ký ức
Nhưng còn đây tàn lụi đến bao giờ?
100. Xuân Sách (Tự hoạ)
Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa đình Bảng người du kích
Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa sởn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cụm đường rách tả tơi.


Nguồn (http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nqnmnmn1n31n343tq83a3q3 m3237nvn)

thagnv
04-07-2008, 20:35
Thầy Thích chơi trò này khó quá à... :(

thanhsoros
04-07-2008, 21:58
1 cánh 2 cánh 3 4 cánh
Lặn xuống cỏ khô bỗng mất tăm

nino
04-07-2008, 23:26
Dân trong nghề có khác lol


cái này phải nhờ bác TNDH giải đáp tại 81 :D

Chừng nào vậy bác Trán Phồng? muốn diện kiến thầy Thích 1 lần nhưng chưa được :D

LDP
04-07-2008, 23:48
Thầy Thích chơi trò này khó quá à... :(

Thầy Thích chết rồi, âm binh đó mày ơi :innocent:

tiểu dân
05-07-2008, 00:41
Chú Bỉnh: Dân bán sách có khác, nhận đúng 100 "mạng" cháu đía được bên Talawas! Khâm phục khâm phục! Nhưng chú dẹp quán của ông thầy luôn rồi! Sau biết lấy gì bán với buôn?!

Cám ơn ông Thầy đã cho tiểu dân cái hạnh dịp được tái kiến với những người một cõi, những kẻ một thời. Nếu không vì cái thread này khơi lại thì có lẽ tiểu dân sẽ vĩnh viễn mất đi một phần ký ức quý giá. Ngồi đoán ... mò, dù trúng hay trật ... lất cũng có cái thú của nó. Dưng không lại có dịp ngồi vắt óc nhớ lại những tác phẩm, những câu thơ xưa cũ, dưng không lại có dịp tìm về xúc cảm một thời đi học, cái thời lần đầu được biết thế nào là văn học đỉnh cao, cái thời mỗi khi lần giở 1 trang sách là tựa hồ như đứa trẻ đi lạc vào một thế giới khác, thế giới của những bức ảnh trắng đen hoen ố, thế giới của những dì những thím với áo dài chẽn eo, thế giới của ngựa xe và những chiếc ô tô kiểu thực dân cũ kỹ, của những con đường vắng, những tán cây, thế giới của muỗi vắt cơm rừng, thế giới của dòng lưu giang lấp lánh dưới ánh trăng, thế giới của những người về đất mà hồn bất tử cùng sông cùng núi, thế giới của tấn trò hỉ nộ ái ố vừa đáng thương vừa đáng hận. Cám ơn ông Thầy.
Tác phẩm số 6 tiểu dân đoán trật lất, mới đọc qua mấy câu
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
tưởng tác giả tả nữ sỹ Hà Huyền Chi với tác phẩm "Thuyền viễn xứ" sau được Phạm Duy phổ nhạc, tiếng thơ, lời ca ai oán, thì thầm mà cao vút lên xé toạc cả không gian, nhẹ nhàng mà như buộc lòng người bằng ... đá tảng :D. Dù đoán trật nhưng thật không uổng phí vì dưng không tiểu dân lại được tìm về "lối" cũ, lối miên man hoài niệm cùng một Đà Giang mịt mù sương khói:

Lên khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ bóng tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần giạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi tiếng hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước tiếng đời hoang mang
...
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường lại đi

Cám ơn ông Thày.

cu em
05-07-2008, 07:38
Hic! Đụng tới văn chương thấy mọi người ... vãi dễ dàng quá nhỉ! Chẳng bù cho mình. Rặn mãi chẳng ra! :embarrass

tiểu dân
05-07-2008, 10:27
Gạo tấm đã bán hết rồi, một mình chú Bỉnh Són mua hết trơn hết láng, giờ còn gạo Tài Nguyên Chợ Đào, đem ra bán nốt! (Chú Bỉnh Són, chú mở quán cơm hồi nào sao hông cho ai hay hết trơn dạ?)

Mỗi một bài thơ đặc tả trong 99 bài thơ trên, tác giả Xuân Sách đều đề cập đến (những) tác phẩm để đời của người được tả. Tiểu Dân do yếu tố khách quan (rời VN từ bậc phổ thông) và yếu tố chủ quan (lười :D ) mà chỉ nhận ra lõm bõm có vài tác phẩm. Thiết nghĩ các tác phẩm đó đều là các tác phẩm lớn, đáng để tìm đọc nên nếu ai nhận ra các tác phẩm được đề cập đến, xin vui lòng cho mọi người cùng biết.

Tiểu Dân mở hàng bài thơ đầu tiên:
1. Bài đặc tả Hồ Phương đã dùng các tác phẩm: Trên Biển Lớn, Xóm Mới, Cỏ Non, và tác phẩm đầu tay Thư Nhà (... theo talawas :D ).

thanhsoros
05-07-2008, 10:44
99 bài thơ, dài quá :emlaugh:

TNDH
05-07-2008, 15:53
ai nhận ra các tác phẩm được đề cập đến, xin vui lòng cho mọi người cùng biết.
Một vài truyện đã đọc, một vài câu đã xem và một vài từ đã nghe, vừa đủ để nhận ra... một vài tác giả:

3. Tô Hoài
Dế mèn (phiêu lưu ký) lưu lạc mười năm
Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền Tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.

4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên Thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say.

5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh sáng bác nhầm thôi
Bới tung đống rác (cũ) nên trời phạt
Trời phạt chưa xong bác đã cười.

6. Nguyễn Tuân
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền.

10. Chế Lan Viên
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy
(Trường ca) Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa

Thay đổi cả cơn mơ
Ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống
Mặt anh em trong suối cạn hội nhà văn

13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua vui
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.

14. Đồ Phồn
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.

15.Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân (Việt Nam) còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan.

17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ (một)điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.

20. Phạm Tiến Duật
Trường Sơn đông em đi hái măng
Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! Giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!

23. Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cánh rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn...Tôi chiêm bao rất nhẹ ngàng/có con bướm trắng thường sang bên nàng...

25. Nguyên Ngọc
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi Đất Quảng lẫn rừng Xà Nu.

27. Quang Dũng
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi...”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người.

“Áo sờn thay chiếu anh về đất”
Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

29. Nguyễn Khải
Cha và con... và họ hàng và...
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng ba ở Tây Nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát!

30. Hoàng Trung Thông
Đường chúng ta đi trong gió lửa
Còn mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm.

...Bàn tay ta làm nên tất cả/với sức người sỏi đá cũng thành cơm

31. Chính Hữu
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành (tình) đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.

35. Nam Cao
Em còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo!

37. Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vàng ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.

43. Anh Đức
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.

45. Vũ Trọng Phụng
Đã đi qua một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.

48. Nguyễn Quang Sáng
Ông năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường Sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm.

53. Phan Tứ
Biên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.

57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tận thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.

60. Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi ra đi những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?

62. Giang Nam
“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi”
Nay tôi yêu quê hương vì có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.

69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió (lộng) thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây.

70. Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần li
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước rạng đông
Hoàng hôn (Bên kia bờ) ảo vọng vẫn không tới bờ
(Những)Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình (thời) thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.

72. Nguyễn Trương Thiên Lý (Trần Bạch Đằng)
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lí gập gềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ.

74. Nguyễn Mạnh Tuấn
Anh đã đứng trước biển
Cù Lao Chàm kia rồi
Nhưng (những)khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.

77. Lê Lựu
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng, xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái

Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mĩ hai lần
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!

79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tím mấy ngàn chiều hoang biền biệt.

82. Lưu Quang Vũ
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát

Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết!

85. Văn Cao
Thiên thai từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca.

86. Ma Văn Kháng
Khi về xuôi anh mang theo
đồng bạc trắng hoa xoè
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
vì giấy giá thú chửa làm xong.

88. Hồ Dzếnh
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vạn dặm khuất trùng mây
Lui về kí ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.

90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên sứ đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.

92. Trần Dần
Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa
suốt dặm dài
Mở đột phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.

94. Bùi Minh Quốc
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà mẹ đào hầm đầu bạc phơ phơ

Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu nhiều lần bị lừa như thế
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao!

97. Phan Thị Thanh Nhàn
Giấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
Mấy ai biết được hương thầm của cô gái xóm đê.

98. Xuân Quỳnh
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
Biển một bên và em một bên.

TNDH
05-07-2008, 16:51
Số phận của ‘Chân dung Nhà văn’

http://img154.imageshack.us/img154/654/xsachjl9.jpg



Xuân Sách, người qua đời tại Hà Nội tối 2-6, đạt thành tựu trong cả văn xuôi và thơ trữ tình nhưng nổi tiếng nhất với tập ‘Chân dung nhà văn’.
Đó là 99 ký họa nhà văn (cùng một bài tự họa) lột tả thần thái của nhiều trong số tác giả quan trọng nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Xuân Sách dùng chính các tên bài hay câu thơ, tác phẩm văn, kịch nổi tiếng nhất của các đồng nghiệp để dựng chân dung của họ.

Đường đi của tác phẩm
Tập thơ này được in năm 1992 và gây ra tranh cãi rất lớn.
Nhà văn Hoàng Lại Giang, khi đó là Trưởng chi nhánh NXB Văn học ở TP. HCM, kể lại với tư cách người tham gia xuất bản tập thơ.
“Chân dung Nhà văn bắt đầu từ băng ghi âm của Tướng Trần Độ. Anh Trần Độ về Vũng Tàu gặp và muốn nghe Chân dung qua giọng đọc của anh Xuân Sách. Ông ghi lại toàn bộ nội dung vào một cuốn băng.”
Sau khi được nghe cuốn băng, ông Hoàng Lại Giang đặt vấn đề với Xuân Sách là sẽ cho in thành tác phẩm. Ông Giang lại nói chuyện với ông Lữ Huy Nguyên, Giám đốc NXB Văn học, và cuốn sách được in xong chỉ trong thời gian một tuần, với số lượng 3000 bản.
Ông Hoàng Lại Giang kể tiếp: “In xong thì phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.”

“Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi.”

Phần thơ mô tả các quan chức trong giới văn nghệ Việt Nam từ ông Tố Hữu đến Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi đã làm dư luận chú ý.
Bài về Lưu Quang Vũ đặt cả câu hỏi cái chết bất ngờ khi còn trẻ của đạo diễn sân khấu: "Ông không phải là bố tôi, Con chim sâm cầm ai giết! "

Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên.

Buổi tối trước ngày họp, ông Giang nói với ông Nguyên rằng việc xuất bản cuốn sách là trách nhiệm của ông, thì để ông “chịu tội”. Ông Nguyên không chịu: “Tôi không thể làm như thế.”
Dừng lại một lúc, ông Nguyên nói: “Tôi biết ông thân với anh Huy Cận và anh Huy Cận cũng rất quý ông. Nếu ông thuyết phục anh Huy Cận ủng hộ thì chúng ta sẽ thoát được khi bên ta được ba phiếu bên chống ta còn lại hai phiếu".
Ông Giang gọi điện thoại ra cho nhà thơ Huy Cận. “Anh rầy tôi cũng dữ, nhưng cuối cùng anh bảo thôi được, để anh tìm cách giúp.”

Kết quả tại phiên họp, có ba người không phản ứng mạnh, “chiều lòng” Hội Nhà văn bằng quyết định niêm phong số bản in còn lại, nhưng không thu hồi.

Nhân cách nhà văn
Tập thơ đã lan truyền rộng rãi trong dân gian từ đó tới nay.
Ông Nguyễn Hòa, chủ biên trang mạng Văn học Việt và là bạn thân của ông Xuân Sách, đánh giá với tập Chân dung Nhà văn, ông Xuân Sách đã chứng tỏ sự trung thực của một người cầm bút.

“Anh ấy rất can đảm khi đụng đến các lãnh đạo văn nghệ. Anh cho người ta thấy chân dung của Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tố Hữu…Qua tập thơ, anh thể hiện đúng sự thẳng thắn của người cầm bút.”
Từ Hà Nội, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nói ông là người rất “hóm hỉnh và giàu tính tự trào”.

“Tính tự trào của thơ Xuân Sách đặc biệt bộc lộ qua tập Chân dung Nhà văn. Ông đã nắm bắt tính cách các nhà văn rất sắc sảo và tinh tế.”
Theo ông Nguyễn Trọng Tạo, Xuân Sách có công lớn khi ông “tạo được một dòng mạch khiến người ta phải chú ý” trong lối thơ tự vịnh, tự trào.

Nhà văn Đa Linh (Nguyễn Đức Hùng), phó giám đốc nhà xuất bản Đà Nẵng, kể “anh em nhà văn gặp nhau, rất hay trao đổi về tác phẩm này” và theo ông, rất khó có ai khác làm được như Xuân Sách.
Trong mắt ông Nguyễn Hòa, thể loại khắc họa chân dung nhà văn không thiếu người viết, nhưng thành tựu không nhiều.
“Thường thường họ chỉ kể vài sự kiện quen thân với nhau. Nếu giới thiệu chung chung về nhân vật thì bài ấy đạt, nhưng sâu hơn thì còn nhạt nhòa.”

Ông Hòa nói có hai lý do khiến thể loại chân dung văn nghệ sĩ, dù là bằng thơ hay văn xuôi, khó phát triển là vì không khí xã hội Việt Nam và quan hệ giữa người trong giới với nhau.
“Nhận định chưa nói ra, người ta đã bảo nó là sai lạc, thế này thế khác, thì thật khó. Ở đây, anh Phạm Lưu Vũ có viết một loạt bài như Xuân Sách, trong đó có một bài rất hay về Hữu Thỉnh. Có một số anh em cũng viết đấy, nhưng chỉ truyền miệng hay viết tay cho nhau. Đưa ra thì phức tạp lắm.”

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo kết luận: “Dòng thơ chân dung nhà văn có lẽ sẽ không phát triển nhiều. Một người khác làm cả một tập thơ, tiếp tục Xuân Sách, hay có thể nổi danh hơn Xuân Sách, chưa có.”
Lê Quỳnh



Phố biển. Gió dính vào da thịt, nắng nhăn nhó mặt người. Quán rộng mênh mông. Một mênh mông lặng ngắt trưa hè. Chẳng biết quán đã chán người hay người chán quán. Có lẽ cùng chán nhau. Chúng tôi chọn một cái bàn tít phía trong, dựa lưng vào một hàng lan can bằng sắt. Phía sau là một cái ao hay một cái hồ nhỏ. Cũng chẳng nhớ gồm năm hay sáu người gì đấy. Tất cả đều như những hình nhân.

Hình nhân tôi ngồi giữa, có vẻ đậm đà hơn một chút, nét mặt cố làm ra vẻ gian ngoan, vừa láu cá vừa vô hồn. Bên trái là một bộ xương già lổng khổng, mà thời gian đã nấu thành cao. Mỗi cử động dù chậm rãi, song vẫn nghe như có những tiếng lục khục, va vào nhau giữa các khúc xương. Nhân giả ấy mang cái tên trẻ mãi: Xuân Sách. Bên phải tôi là cả một cuộc gày gò đeo kính cận dày cộp, nước da xám như đồ đồng cổ, đội mái tóc muối tiêu lòa xòa như tóc giả. Người này ngồi bất cứ chỗ nào cũng như thể đang ngồi trong bụi cây, xem thiên hạ như một vở rối, chỉ muốn từ trong bụi thò cái cổ ra ngoài. Gương mặt xương xẩu tiết kiệm thịt tối đa, nhưng cái vẻ ngạo đời thì không dấu đi đâu được. Nhân giả ấy chỉ có cái tên là lẫn vào với muôn mặt đời thường, tuy vẫn hơi kiêu bởi có độc hai từ cộc lốc: Nguyễn Hòa (SCL).

Cũng cần nói thêm một chút, rằng hai Nhân giả này tôi hội ngộ đã nhiều lần, lần nào tôi cũng say, đến nỗi không biết lối mà chào hỏi lúc chia tay. Để tới khi tỉnh rượu mới thấy lòng ân hận. Cũng như những quyền lực ngự trị giữa hai kì bầu bán, nỗi ân hận của tôi cũng ngự trị suốt thời gian giữa hai kì hội ngộ, để rồi lần sau lại lặp lại y chang…

Trước mặt ba chúng tôi là hai hay ba người gì đấy. Nom tươi tắn, hớn hở mà vẫn mờ ảo như bị lẫn trong một đám khói sương. Mấy gương mặt lúc nhìn rõ thì lại giống y hệt những tờ giấy bạc. Ôi những tờ giấy bạc hấp dẫn, đầy ấn tượng, hình như nhiều lắm, ở chỗ nào cũng bắt gặp. Giấy bạc ngồi trong quán, giấy bạc trên diễn đàn, giấy bạc ngự trên cao, giấy bạc chạy đầy đường… Xung quanh chúng tôi, nhân loại đang bước vào một canh bạc khổng lồ. Nghe họ giới thiệu quê ở một làng nổi tiếng thời kháng chiến chống Pháp. Tôi quay sang bảo vị Nhân giả bên trái: “Họ ở đúng cái làng mà ngày xưa bác viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng: “Đội du kích thiếu niên…” đấy!”. Rồi quay lại, hãnh diện nói với họ: “Đây chính là tác giả cuốn tiểu thuyết ấy”. Những gương mặt giấy bạc “thế ạ” một tiếng rồi ngẩn ra hỏi nhau: “Quái lạ! Làng mình làm gì thấy có du kích du cót nhỉ?”.

Tôi bật cười vì câu nói ngộ nghĩnh ấy. Bèn nói với vị Nhân giả: “Thế là ‘xong phim’ rồi bác nhá”. Rồi buột mồm nghêu ngao một bài hát quen thuộc: “Việt Nam, trên đường chúng ta đi. Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó. Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời. Nghe ấm lòng những khi…” Câu hát bị sững lại đột ngột vì có món lẩu vừa đặt lên bàn. Lẩu thập cẩm, đủ các loại thịt, rau tuôn vào cốt đánh lừa vị giác. Bất cứ cái mồm nào cũng có thể tìm thấy cảm hứng ở trong đó. Cũng như chúng tôi ngồi đây, lúc nào cũng ra sức tự đánh lừa rằng mình đang sống kiếp người. Ca từ vừa rồi cũng của vị Nhân giả ngồi bên trái tên là Xuân Sách ấy. Hình như làm ra cách đây đã già ba chục năm. Tôi ngắm nhìn gương mặt kỉ hà của ông. Gương mặt ấy nói với tôi: “Thời ấy, nó thế. Thời nó… ấy thế!”.

Tôi lại nhẩm mấy câu thơ của ông: “Làm vua mà cũng chán / Bỏ đi theo mây ngàn / Một nước cờ Yên Tử / Làm bận lòng thế gian” (bài “Yên Tử”). Vị Nhân giả bên phải là Nguyễn Hòa bảo: “Tại sao bận lòng nhỉ?”. Tôi nhìn ông đang gật gù và chợt hiểu. Yên Tử là An Tử, là chốn an lành của một bậc Thầy, bởi Tử có nghĩa là Thầy. Vậy thì cái “nước cờ” ấy, đơn giản là đạt tới… cõi yên. Muốn thế phải thờ ơ với ngôi vua, thờ ơ với danh, lợi, thờ với mọi cám dỗ… Nhưng mà than ôi, cái kiểu “yên” như vậy thì thế gian từ đó đến nay, có bao giờ yên đâu? Chẳng trách phải bận lòng. Tôi ngẫm nghĩ và bất chợt cùng gật gù với ông. Thời bây giờ có nhiều thầy (tử) lắm. Mà không “yên” thì tức là đang “loạn”. Thế thì ngoài cái chỗ là “Yên Tử” duy nhất đó ra, thế gian này toàn thị là… “Loạn Tử”. Ghê thật! Bốn câu thơ nói về cõi Tiên, mà rõ ràng hiện lên… cõi Tục.

Cái tư tưởng “yên tử” với “loạn tử” ấy làm tôi chợt liên tưởng đến một tập “thơ chân dung” của ông từng viết. Tập thơ vừa in xong đã bị thu hồi. Hình như trong đó sừng sững đến cả trăm gương mặt. Thế thì cũng thuộc loại “bách Gia, chư Tử” rồi. Cả một thời chư Tử không “yên”. Nghe nói vì tập thơ đó, con cháu một số vị “chư Tử” ấy có người đe đánh ông. Tập thơ đặc tả những gương mặt quen thuộc, nhàu nát như thể sách giáo khoa. Những thế hệ bầy đàn như chúng tôi chính là đã lớn lên trong cái vầng hào quang giáo khoa chói lọi ấy. Tôi chuẩn bị cất mồm ngâm ví dụ vài bài thơ chân dung của ông thì Nguyễn Hòa vội đưa tay ngăn lại. “Thôi, đọc cái khác đi”. Thì ra Nhân giả này đang nghĩ hệt như tôi, đọc được ý nghĩ của tôi. Quả là tôi đang ngồi bên cạnh… quỉ, chứ không phải người thường.

Tôi rợn người trước ý nghĩ ấy, vội vàng nốc cạn một ly rượu để lấy lại hồn vía. Dụi mắt một hồi cho các giác quan trở về cõi thực, rồi quay sang vị Nhân giả bên trái là ông mà bảo: Huy Cận ngày xưa nhớ quê thì nghĩ ngay đến bác lò rèn: “Bác cho tôi đốm lửa ban sơ / Tôi luyện rèn năm tháng thành thơ”. Nguyễn Bính nhớ quê thì: “Quê nhà xa lắc xa lơ đó / Trông lại tha hồ mây trắng bay”. Còn bác, bác nhớ quê hương đến nỗi phải biến thành… con bò(!). Sao lại biến thành bò? Thì đấy: “Tôi ngồi ăn / trong quán cơm bình dân phố núi / hết rổ rau này, rổ khác lại bưng ra…” (Bài “Rau má”). Bác ngốn rau má như thế, mà là ăn sống, rau sống mới đựng vào rổ. Thế thì không phải bò là gì. Ừ nhỉ. Sao bác không viết: “hết đĩa này, đĩa khác lại bưng ra…”? Nói cho vui vậy thôi. Chứ mấy ai ngốn ngấu nỗi nhớ quê được như ông. Hình ảnh tuy chỉ nhỏ bằng cọng rau má. Song tấm lòng thì bằng cả… con bò. Ôi cái thứ cây rau “nông nghiệp hàng đầu” ấy. Ông đã đi qua hai cuộc kháng chiến rồi. Vậy mà quê hương Thanh Hóa của ông, bây giờ vẫn “rau má”, vẫn xa lắc xa lơ như Nguyễn Bính thời long đong xưa vậy.

Sẵn cái mạch quê hương bản quán vạn kiếp tha phương nghìn đời thê thảm ấy, trong óc tôi lại hiện lên mấy câu thơ ông viết: “Tôi về với bến sông xưa / Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò / Nhìn theo ngọn khói vu vơ / Nhớ thương thì có, đợi chờ thì không…” (Bài “Bến quê”). Không trách ông gọi mình là Xuân Sách. Những câu thơ như thế này không hề có tuổi, đọc lên nghe buồn và thương đến lặng người. May quá, tôi đang ngồi bên ông, nhìn ông đang yên ổn, trầm ngâm mà cảm thấy được an ủi phần nào. Tôi ngắm cái hình hài tưởng như trong suốt của ông và rùng mình nhớ tới hai câu kết, trong bài thơ ông tự vẽ mình (chân dung tự họa) như sau: “Mặt trời ảm đạm quê hương cũ / Ở một cung đường rách tả tơi.” Câu thơ mới tuyệt tác làm sao. Mười bốn chữ ấy chứa bao nhiêu máu, xương và nước mắt, không gian và thời gian, tâm linh và sự uyên bác… Tôi đọc lên trong một niềm kính cẩn, lòng tự nhủ không được vô lễ với sự ghê gớm, từng trải nhường ấy. Thơ ấy chỉ có thể thấm thía, đau đớn, mà không thể cắt nghĩa. Bức “chân dung” mới lồng lộng làm sao, bởi nó đâu chỉ tạc nên kiếp phận một con người…

Tôi rót rượu vào ly của ông. Ông run run đưa ly rượu lên môi, ngửi tí rồi đặt xuống. Tôi biết ông từng uống được rượu, say được rượu. Nhưng bây giờ thì không. Cũng như ông đã từng “uống” được cuộc đời này, say với cuộc đời này. Nhưng bây giờ thì say đến mức… lộn mửa ra mất rồi. Bài thơ ông viết về rượu, nhưng chính là nói về cuộc đời: “Đừng rót nữa tôi không sành rượu / Uống không say thì uống làm gì / Vui chẳng thêm, buồn không quên được / Cứ như thừa từ cái mặt thừa đi / Cứ như thừa trong cõi đời náo nhiệt / Hay hớm gì nhìn gan ruột người ta / Giữa thời buổi cạnh tranh quyết liệt / Cứ tỉnh queo lắm lúc cũng phiền hà…” (bài “Rượu”). Vần thơ giản dị như câu nói mà thực là đã chạm tới những bí ẩn của cõi huyền vi. Ông bắt đầu cảm thấy mình “thừa” từ lúc nào vậy? Từ lúc ông thuộc lòng cuộc đời này và lập tức, ông cũng từ chối luôn cái phần đểu giả của nó. Song ông thuộc lòng nó theo cách thuộc của một bậc tiên tri: “Vừa chấm hết rừng thì đã biển / Cuộc đua vô tận với thời gian / Cây có trăm năm thành cổ thụ / Biển nghìn vạn thuở vẫn thanh tân…” (bài “Hồ Cốc”). Thế mới biết ngoài đọc thơ còn phải… đọc người. Bài thơ đầy ắp âm hưởng Đường thi này còn ba khổ thơ nữa. Ông xé đôi mình ra để ví với rừng, với biển. Tôi cho đây là một thứ “chân dung” linh hồn của ông, của một bậc Nhân giả biết từ chối mà không từ bỏ. Hình như tôi vừa chợt nhận ra một điều. Cái gì đã làm nên sự uyên bác và từng trải nơi ông, nơi những người như ông? Sau này có ai viết về ông, về những người như ông thì tôi xin đưa ra một gợi ý. Rằng cái đó chính là… sự thật, ông đã chứng ngộ được sự thật. Và than ôi, đó cũng chính là nỗi bất hạnh của ông, của những người như ông.

Cách đây hơn hai chục năm, văn nhân thi sĩ Xuân Sách hăm hở xách vợ con hành phương Nam, tới cái phố biển Vũng Tàu quanh năm lộng gió này. Ông xuống biển để đơn giản là làm một người lương thiện. Nhưng: “Như những người lương thiện / Sống đời không bình yên” (bài “Cây dừa”). Ông biết cuộc đời này, người lương thiện khó mà sống bình yên cho được. Song lúc ấy, chắc ông đâu có ngờ rằng có những cái còn hơn cả sự “không bình yên” nữa kia. Đó là việc ông bắt đầu một công cuộc của một ẩn sĩ cô đơn, ngày càng cô đơn cho tới tận bây giờ. Căn hộ tập thể bốn mét nhân hơn chục mét người ta phân cho ông từ ngày đó, đến nay vẫn nguyên xi sự tồi tàn, trong khi ông đã trở thành cổ kính. Càng cổ kính hơn khi xung quanh ông ầm ĩ cách tân. Dễ hiểu rằng nếu ông không cảm thấy cô đơn thì mới là chuyện lạ: “Bỗng có lúc thấy mình là khách / Mọi thứ thân quen chợt lạ lẫm không ngờ / Chiều chạng vạng vui buồn đi theo nắng / Còn một mình ngồi với trắng cơn mơ.” (Bài “Bất chợt”). Tôi không hề có ý trách cái thành phố biển xinh đẹp này làm ông cô đơn. Ngược lại là khác. Ông cô đơn chính vì đã đạt tới cảnh giới của mình. Cuộc đời này, người như ông ở chỗ nào cũng không thoát khỏi cô đơn: “Trái đất quay tròn ta cũng quay / Chạy đâu cũng nắng với mưa này…” (bài “Canh rượu”). Song ông vẫn đầy trách nhiệm với cuộc đời: “Nợ đời rồi tôi sẽ trả / Nợ tình tôi vắt trên vai” (bài “Biển chiều”). Thậm chí ông vẫn còn nhiều “duyên nợ” với cuộc đời này lắm: “Núi cao đá dựng non ngàn / Chiều thì đã muộn, dặm đàng còn xa” (bài “Chiều muộn”). Hãy nhìn nụ cười của ông kìa. Ông đang cười rung toàn thân, cười muốn rụng cả cái xương quai hàm vốn chỉ còn lỏng lẻo. Tôi nhìn ông cười và chợt hiểu. Người như thế, thơ như thế nếu có bị cô đơn, thì cũng là sự cô đơn của một chân kẻ sĩ, của một bậc hiền nhân. Ông cười vì xưa nay, những hiền nhân cô đơn giữa nơi chợ búa hay tận chốn hang sâu bao giờ cũng là chuyện bình thường, chuyện đời nào cũng thấy. Mặc dù kẻ đắc chí thì lúc nào mà chẳng đầy rẫy, nhan nhản từ trời gần cho đến trời xa… Nhưng đốt đuốc tìm trong cái đám nhan nhản ấy, có mấy ai là hiền nhân quân tử đâu. Điều đó, ông đã không lấy làm lạ từ lâu lắm rồi.

Nghĩ đến đây, tôi lại giật mình thấy ông có cái gì giống Khuất Nguyên ngày trước. Cả cuộc đời say, đủ các kiểu say, chỉ có mình ông tỉnh… Bậc hiền nhân ấy không tránh khỏi một nỗi lòng tâm thế: “Đi từ sáng sớm mưa như trút / Một chút mặt trời báo buổi trưa / Rồi đường lại xoá mờ trong nước / Đi hết ngày mà chưa hết mưa” (bài “Mưa trên lộ bốn”). Tôi quay sang hỏi vị Nhân giả Nguyễn Hòa, rằng tại sao lại là lộ bốn, mà không là lộ một, lộ hai, hoặc không thì cũng lộ năm, lộ sáu…? Nhân giả ấy vẫn trầm mặc, tịnh không một lời nào. Cái trầm mặc như một dấu ba chấm (…). Câu trả lời nằm trong dấu ba chấm ấy. Con “lộ” đó không tiện nói ra… Cả cuộc đời đục, vậy cho nên cái trong trắng, thanh tân chỉ dám loé lên trong khoảnh khắc rồi tắt ngấm. Ông đã viết như thế trong bài “Hoa Quỳnh”: “Hoa Quỳnh tên đẹp vậy em / Mà sao chỉ nở giữa đêm một lần / Thưa rằng trinh trắng thanh tân / vậy nên “ngắn ngủi có ngần ấy thôi”. Ngoài cái sự say / tỉnh, đục / trong ấy ra, cuộc đời này thiếu gì kẻ… lỡ tàu. Song với những người như ông, tôi cứ ngẫm nghĩ mãi, rằng không biết ông là người lỡ tàu, hay chính con tàu kia mới là kẻ đã lỡ mất ông, lỡ mất những người như ông? “Muốn đi cho đến vô cùng / Mà con tàu đã vội dừng sân ga” (bài “Qua Hải vân”). Đến đây, trước khi chìm vào một cơn say, hình nhân tôi lại giật mình một lần nữa khi bỗng nhận ra, rằng ông chính là người mà thời gian đã kịp “nấu” thành… cao, một thứ “cao” giống như cao hổ cốt. Tôi đã đọc ông từ nhỏ. Song phải đợi tới bây giờ, phải tìm đến ngồi bên ông, tôi mới may mắn được thưởng thức món “hổ cốt” văn chương ấy mà cuộc đời rất hiếm khi luyện được, luyện được rồi thì lại đem cất kĩ, chỉ khách quý mới mang ra đãi mà thôi.
Phạm Lưu Vũ

TongNghien
05-07-2008, 21:57
Mấy ông nhà văn ăn ở không, lông bông viết.

Đói cả đời.

Tự trào


...nước mắt.

binhson50
06-07-2008, 06:29
Gạo tấm đã bán hết rồi, một mình chú Bỉnh Són mua hết trơn hết láng, giờ còn gạo Tài Nguyên Chợ Đào, đem ra bán nốt! (Chú Bỉnh Són, chú mở quán cơm hồi nào sao hông cho ai hay hết trơn dạ?)

... nếu ai nhận ra các tác phẩm được đề cập đến, xin vui lòng cho mọi người cùng biết.


Nào có quán xá mua bán gì đâu, thấy quán đông khách nhưng chỉ có mỗi mình "bà" chủ quán nên vào làm Ôsin vậy mà.

1. Hồ Phương (http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/nhanvat/2008/4/52197.cand)
Trên biển lớn mênh mông sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

Tác phẩm:
Vệ út (1956)
Chuyện Tây Điện Biên Phủ (1957)
Lá cờ chuẩn đỏ thắm (1958)
Thư nhà (1958)
Cỏ non (1960)
Xóm mới (1963)
Trên biển lớn (1964)
Chúng tôi ở Cồn Cỏ (1968)
Huế trở lại mùa xuân (1971)
Những tầm cao (2 tập, 1973, 1976)
Phía Tây mặt trận (1978)
Biển gọi (1982)
Mặt trời ấm sáng (1985)
Truyện ngắn chọn lọc (1995)
Táo con (truyện, 1996)
Cánh đồng phía Tây (2004)
Những Cánh Rừng Lá Đỏ (2005)
Truyện ngắn Hồ Phương (2006)
Biển gọi (2007)
Cha và con (2007)


http://img.tamtay.vn/files/2008/04/14/yenkhuong/blog_images/4852cd2b_new%20image.jpg
Nhà văn Hồ Phương

TNDH
06-07-2008, 09:47
híc bác post mỗi lần một ít chứ thế này ... :(
đọc hết 99 bài thì cũng có bài đoán được, bài không
nhưng dám cá là không có Bùi Chí Vinh trong này nhỉ?

sao không làm thơ tả người làng nhỉ?
Thích thì mần :lick:

CHÂN RĂNG NHƠN VẬT Lờ Mờ

Một
Chẳng diều chẳng quạ chẳng kên kên
Ưa bắt gà con thế mới kềnh
Phập phồng kiếm gạo nuôi bà nhỏ
Dư tí vậy thui chứ chẳng bền

Hai
Tóc buồn chẳng tiễn cứ ra khơi
Mệnh trời dù biết vẫn chẳng ngơi
Đầy bồ lúa giống tơi bời khói
Ai giỏi giúp tớ kiện củ khoai

Ba
Đáng phải quy y tạm cõi thiền
Khẩu xà tâm Phật bất đảo điên
Hỗn thế ma đam người chung thuỷ
Tựa gã xe ôm bởi chữ tiền

Bốn
Lăng xăng trong cõi người ta
Chữ tình liền với chữ tinh một nhà
Động phòng ngóng tiếng rên la
Trăn qua trở lại gọi gà sang canh
(Còn...)

cu em
06-07-2008, 11:04
Ngỏng C lên xem có Cu em mình có sừng sững trong L không? :rolleyes:

vansulich
06-07-2008, 11:08
Nhớ gì như nhớ người yêu
Tố hữu hehehe

TongNghien
06-07-2008, 11:33
Thích thì mần :lick:

CHÂN RĂNG NHƠN VẬT LÀNG MÙI

Một
Chẳng diều chẳng quạ chẳng kên kên
Ưa bắt gà con thế mới kềnh
Phập phồng kiếm gạo nuôi bà nhỏ
Dư tí vậy thui chứ chẳng bền

Hai
Tóc buồn chẳng tiễn cứ ra khơi
Mệnh trời dù biết vẫn chẳng ngơi
Đầy bồ lúa giống tơi bời khói
Ai giỏi giúp tớ kiện củ khoai

Ba
Đáng phải quy y tạm cõi thiền
Khẩu xà tâm Phật bất đảo điên
Hỗn thế ma đam người chung thuỷ
Tựa gã xe ôm bởi chữ tiền

Bốn
Lăng xăng trong cõi người ta
Chữ tình liền với chữ tinh một nhà
Động phòng ngóng tiếng rên la
Trăn qua trở lại gọi gà sang canh
(Còn...)

Tả hay quá, hổng biết tả ai luôn !!! :no:

TNDH
06-07-2008, 12:17
CHÂN RĂNG NHƠN VẬT Lờ Mờ (tiếp theo và...)


Năm
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau một cái đại dương xanh rờn
Hai người tuy ở hai phương
Hình như nàng cũng nghe gà (gáy) giống tôi
Ước gì bán được đại dương
Thế nèo tôi cũng mua mây cho nàng
Tôi chiêm tinh rất đậm đà
Có bông hoa héo thường rơi bên giường
Ví ơi vi có còn xu
Cho tôi mượn lẻ ba hào thế thui
Chả bao giờ thấy nàng ừ
Nàng trêu tôi mãi cho hoài tuổi xuân
Giá đừng có lão Năm kia
Lòng tui chẳng thấm đòn như bấy giờ

Sáu
Thảo nguyên bát ngát mông mênh đùi lẫn đồi
Cỏ cây lơ lác phiêu du tận vũng tàu
Tìm em ta mãi online nhiều mối tình
Nhưng em iêu ơi, tối anh nằm ôm

thơ
Nhắn giúp chim ơi cho ta
Kiếm giúp cho ta ơi chim
….

Bảy
Mười xị chửa vơi sầu
Bể buồng chạy về đâu?
Thương thay con cá vào lu
Một thời lác gãi bốc U lên giời
Vào lu mới ngộ cuộc đời
Còn người cho tựa còn người cho ôm

yeucine
06-07-2008, 14:26
CHÂN RĂNG NHƠN VẬT LÀNG MÙI

Bốn
Lăng xăng trong cõi người ta
Chữ tình liền với chữ tinh một nhà
Động phòng ngóng tiếng rên la
Trăn qua trở lại gọi gà sang canh
(Còn...)[/SIZE]

Khoái bài này nhất.
Nhưng hỏng biết tả ai .

TongNghien
06-07-2008, 14:34
Đoán thử:

Một:
(hổng biết ai)
Hai:
(không biết nốt)
Ba:
thaychuaStudio
Bốn:
(hông biết)
Năm:
NguyenYVan - Hoa Héo
Sáu:
(bó tay)
Bảy:
unlucky - Mít-tờ Lác

cu con
06-07-2008, 14:51
mấy cái kia cu em đoán rồi:

Hai: DoanDung
Ba: Dê lỳ
Không biết có đúng không lol

TNDH
06-07-2008, 15:38
CHÂN RĂNG PHẦN CUỐI

Tám
Tay tiên… nâng chén… chén rượu tào… ấy mà rượu đào
Ai say mà… vẫn tỉnh…chẳng nhào… chẳng nhào mới hay
Vậy mới hay… vậy mới hay.
Thân em… thân em hai xứ... hai xứ cộng dồn
Tài hoa… tài hoa mà (trời) lắt léo… con tạo… con tạo nó trớ trêu.
Trời đất ui... trời đất ưi

Chín
Một người (tính) đi với một người (tình)
Một người đâu đó bên đèo Hải Vân
Hai người nệm gối bên nhau
Một người hờ hững chờ đêm sắp tàn
Giữa đường chữ nghĩa vụt tan
Ơ hay em bảo chữ tình là đây
Bây chừ tình cũng theo mây
Dường như cả bốn ngẩn ngơ đứng nhìn



Văn nhân mới chín chín bài
Phàm nhân chín bãi đãi làng mua vui

dly
06-07-2008, 15:53
[B][COLOR="red"]Ba
Đáng phải quy y tạm cõi thiền
Khẩu xà tâm Phật bất đảo điên
Hỗn thế ma đam người chung thuỷ
Tựa gã xe ôm bởi chữ tiền




mấy cái kia cu em đoán rồi:


Ba: Dê lỳ
Không biết có đúng không lol

:crying: Tớ xấu thế ư :no: :banghead: Nhớ mình cũng cường tráng lắm mừ. Không tin hỏi Xoan coi :rolleyes:

cu con
06-07-2008, 16:40
không biết, nghe anh em trong L bảo vậy lol lol

thagnv
06-07-2008, 19:18
Tả hay ghê... đúng là đọc vô hổng biết ai là ai luôn...

Cứ thấy bài nào có Gà tưởng em, ai dè 2 bài có gà lận...

vansulich
06-07-2008, 19:29
nghe anh em trong L bảo vậy
trong làng thì viết là Làng lại còn bày đặt "cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng " :D hahaha

nino
06-07-2008, 21:30
nghe anh em trong L bảo vậy
trong làng thì viết là Làng lại còn bày đặt "cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng " :D hahaha

Bác này toàn nghĩ bậy,
LM là làng mùi đó
Còn ĐM là đào mả...
Còn nhiều lắm bác tham khảo ở link dưới đây để biết là chẳng có ai bậy bạ, chỉ có người đọc tự nghĩ bậy thôi :D :D
http://www.ddth.com/showthread.php?t=113613

edavn
06-07-2008, 22:02
Đoán Thử
Một: Lão Kền
Bốn: Éo Đà
Năm: Hoa Héo
Sáu: Cu Lác
Bẩy: Thích Nude

Bốn là lão cá viên chiên chứ bác nhẩy:w00t:
Ba là Vãi chứ hổng phải bác Dê:D
Tám là Íp sư phụ:crying:
Chín có cả lão Dê với vợ, Đòn nà và ... Y vân:lick:

tiểu dân
07-07-2008, 01:42
TD cũng nghĩ ba: dly

thagnv
07-07-2008, 02:08
Số 4 là em òi... 9 bài có 2 chữ gà, 1 bài ko phải thì là bài số 4 òi...

Tạ ơn thầy!

TNDH
07-07-2008, 14:02
ĐỜI ĐỜI NHỚ ÔNG
TỐ HỮU

http://img377.imageshack.us/img377/9124/stalinspeech1mh6.jpg

Thơ rằng:


Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo ông trắng giữa mây hồng
Mắt ông hiền hậu, miệng ông mỉm cười
Trên đồng xanh mênh mông
Ông đứng với em nhỏ
Cổ em quàng khăn đỏ
Hướng tương lai
Hai ông cháu cùng nhìn
Sta-lin! Sta-lin!
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin!
Mồm con thơm sữa xinh xinh
Như con chim của hoà bình trắng trong
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, ông đã làm sao, mất rồi!
Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!
Hỡi ôi Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương Ông thương mười
Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có Người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người
Con còn bé dại con ơi
Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông
Thương Ông mẹ nguyện trong lòng
Yêu làng yêu nước yêu chồng yêu con
Ông dù đã khuất không còn
Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời.

Thiên hạ bình (trích):


…thật xạo: Yêu biết mấy nghe con tập nói/ Tiếng đầu lòng con gọi Stalin… rồi trơ trẽn khi nghe tin Stalin chết: Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười…





Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xta-lin
Theo nhận xét của riêng tôi, đây là những câu thơ vong bản nhất, cổ kim chưa từng có, trong thơ Việt.
Hãy cứ tạm tin rằng… tấm lòng kính yêu sùng bái của Tố Hữu đối với Stalin là thành thực. Nhưng dám vẽ ra cái cảnh con mình, một đứa bé Việt Nam cất tiếng đầu lòng không gọi “Mẹ” mà gọi “Xta-lin” thì thật là một sự bịa đặt gượng ép lố bịch quá quắt, đến nỗi tôi phải nghĩ rằng đó là của ai khác viết ra chứ không phải của tác giả…

BMQ



Con người ai cũng có những lúc sai lầm như Tố Hữu đã từng viết
"Mỗi lần vấp là một lần bớt dại
Ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần"
Như vậy TH đã thừa nhận là mình đã từng "vấp", đã từng "dại" ... Ta phải nhìn sự việc ở đây dưới con mắt nhân bản, con người là ... thủa mới đi theo cách mạng TH còn ngờ nghệch, thông tin thời đó có hạn, chưa biết nhiều về Stalin ...

Members

Mỗ nghĩ:


Bài thơ ra đời 1953 – Tố Hữu lúc đó có thể đang trong núi rừng Việt Bắc, mọi biện minh cho ông (hoàn cảnh; thời thế; nhận thức…) có lẽ sẽ không dễ gì được chấp nhận với những thế hệ đương thời.
Tớ ví bài thơ như một tảng đá (không phải hạt sạn) khó mà "nhặt" ra trong văn nghiệp của ông.
Câu “Tử giả bất luận” nên chăng, có thể vận dụng cho ông qua bài này (và một vài bài nữa) vì bản thân ông khi sinh thời có thể cũng đã có nhiều ray rứt về chính nó.
12 năm học phổ thông, môn văn tớ chỉ làng nhàng ở mức trung bình. Duy chỉ và chỉ một lần có bài văn được điểm 10 (lại) là bài phân tích thơ Tố Hữu.
Thủa ấy gần 30 năm trước, tớ đã gọi ông là Thi hào và thuộc thơ ông còn nhiều hơn cả Đại thi hào Nguyễn Du.
Nay lại vẫn còn nhớ nhiều đoạn thơ ông hơn cả nhớ truyện Kiều:


Đường Thống nhất chân ta bước gấp
Miền bắc ta xây đắp nhanh tay
Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trong trời đất đổi thay đã nhiều
Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê
Chiêm mùa cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn
(quên…)
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu thay người
Đời hết kẻ sống lười ăn bám
Đời của ai dũng cảm hy sinh
(quên…)
Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây xương sắt da đồng
Đảng ta muôn vạn công nông
Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin
Những bài khác:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chiếu trong tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng hát chim
Hoặc:
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự
Hoặc:
Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ
Anh giành cho Đảng phần nhiều
Phần cho em và phần cho thơ
Hoặc:
Giờ lão vác tròng đi bắt chó
Chó vàng chó mực tội gì đâu
Sao không thịt hết bao con đó
Liếm gót giầy tây béo mượt đầu
….


Dù sao Tố Hữu cũng là nhà thơ của một thời.:yes:
Các bạn văn làng Mùi thì sao?

tiểu dân
07-07-2008, 17:01
Tiểu Dân trước giờ vốn không giữ lòng thù ghét ai, nhất là những người đã khuất, dù đã phải chịu nhiều cay đắng trong cuộc đời vỏn vẹn mới có hai mươi ba năm. Tử giả bất luận. Bất cứ ai, khi đã nằm xuống là đã thành thần thoại. Những việc họ làm khi còn tại thế đúng thì mang ơn, còn sai thì đã là quá vãng. Bởi vậy nên khi đọc chân dung nhà văn, TD tuyệt nhiên không nói 1 câu nào khi thấy 1 đoạn thơ đột nhiên khác hẳn với 98 đoạn thơ còn lại, ấy là đoạn thơ tả ông Tố Hữu.

Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, nay gió Thích Nữ thổi tới thì để cây Tiểu Dân dạo vài phiếm lá cho vui.

Trước tiên Tiểu Dân xin được xin lỗi tất cả những người yêu mến Tố Hữu và thơ ông, xin lỗi các bạn yêu mến tài năng của 1 Tố Hữu với những lời thơ bóng bẩy. Tiểu Dân cố gắng giữ bài viết của mình ở mức khách quan nhất có thể, song cũng không thể tránh khỏi những lời nghịch nhĩ.

Chúng ta đều là những người có ăn có học, những lời nói của TD đáng lắng nghe đến mức nào, TD tin là tất cả mọi người đã đủ độ chín chắn để tự quyết định lấy cho mình.

Rào đón thế đủ rồi. Trở về bài thơ thứ 69 của nhà thơ Xuân Sách tả chân dung Tố Hữu:
69.
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việc Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây.

Nếu như 98 bài thơ kia gói ghém lòng yêu mến tác giả, tác phẩm, sự cảm thông đến một số nhà văn, nhà thớ gặp cảnh đời bi đát, hay 1 lời tránh cứ nhẹ nhàng thì ở bài này, Xuân Sách, theo TD, là tát thẳng vào mặt ông Tố Hữu.

Hai câu thơ đầu:
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa

Là để chỉ cái chí khí hào hùng mà ông Tố Hữu thường vẽ ra cho thanh niên thời ấy, với tầm vóc, với mộng ảo (chân dép lốp bay vào vũ trụ) về một thế giới đại đồng không tồn tại. Vào thời bấy giờ chủ nghĩa Cộng Sản còn đang hô hào xây dựng 1 thế giới đại đồng mà ở đó mọi người đều bình đẳng như nhau nhưng mặt khác lại hoặc công khai, hoặc bí mật thủ tiêu những người bất đồng chính kiến (trong đó có cả những người không tôn sùng chủ nghĩa cá nhân, không đưa các ông Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ lên bàn thờ, nghĩa là, những người thực sự coi mọi người đều bình đẳng như nhau). Xuân Sách kết thúc khổ đầu bằng một câu mỉa mai châm biếm, đập tan đám mây hồng mộng ảo mà Tố Hữu cố vẽ nên, nhẹ nhàng mà đau đớn:

Khi trở về ta lại là ta.

Trong nghiệp văn chương, kỵ nhất là bị cải biên tác phẩm. Người cầm bút ghét nhất là tác phẩm của mình bị ban biên tập tùy nghi sửa chữa, đừng nói đến việc nó bị cải biên thành ra trò hề. Ở khổ thơ thứ 2, Xuân Sách không những cải biên, mà còn dùng thẳng thơ Tố Hữu để cười cợt ông.

Tố Hữu viết:
Từ ấy tim tôi bừng nắng hạ

Thì Xuân Sách tạt vào mặt ông 1 gáo nước lạnh với câu:
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát

Câu thơ trên của Xuân Sách còn thâm ở chỗ là ông mỉa mai luôn cả cái "mặt trời chân lý" của Tố Hữu. "Từ ấy" là từ khi nào nếu không phải là từ khi xuất hiện cái thứ khiến cho Tố Hữu "giác ngộ" (*), tựa hồ như nó là 1 điều khiến cho người ta phát tởm lợm đến phải "ngừng tiếng hát".

Hai câu thơ sau như 1 cú đấm bồi:
Trông về Việc Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt

Hai câu thơ này cười khinh thẳng vào mặt Tố Hữu. Nên biết rằng, nhìn vào lịch sử đấu tranh của cách mạng, từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp trước năm 1945 đến kháng chiến chống Mỹ, từ 45 đến sau 75, ông Tố Hữu chẳng có bất cứ 1 đóng góp nào cho sự nghiệp đấu tranh ngoài việc khua ... võ mồm. Để mồm miệng đỡ tay chân, ông không từ một thủ thuật và thủ đoạn nào, từ khích sỹ đến nịnh tướng với những thơ tứ đôi khi là quá sức thô thiển và kệnh cỡm (như bài thơ TNDH đã dẫn ở trên), từ bán rẻ đồng đội, đồng chí (trong phong trào dụ rắn ra khỏi hang "trăm hoa đua nở")đến rũ bỏ phần người trong hai tiếng con người (trong phong trào đấu tố "cải cách ruộng đất": "Giết giết giết bàn tay đừng ngơi nghỉ / Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong / Cho đảng bền lâu rập bước chung lòng / Thờ Mao chủ tịch thờ Xít-Talin bất diệt" ). Song đó là cái công của ông, cái công duy nhất của ông với Cách Mạng, cái công múa lưỡi khơi gợi lòng dân, và Xuân Sách đã trỏ thẳng vào cái công duy nhất ấy để mà cười cợt rằng dù ông có nói hay nói tốt thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng có gì thiết thực "Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt!"
Câu thơ cuối cùng trong khổ thơ đặc tả Tố Hữu, TD thật sự không biết nó xuất xứ từ đâu, do ai sáng tác, song mỗi khi nhắc đến Tố Hữu, già trẻ lớn bé không ai là không biết đến câu ấy, rằng "Máu ở chiến trường, hoa ở đây" với ngầm ý rằng Tố Hữu chưa 1 lần nếm trải gian lao Cách Mạng, chỉ ngồi mát ăn bát vàng mà làm thơ viết văn cho kẻ xông pha nơi trận mạc, thế mới có câu chỉ dành riêng cho 1 mình Tố Hữu "máu ở chiến trường, hoa ở đây". Và Xuân Sách đã kết thúc phần đặc tả của mình với câu thơ mỉa mai ấy.

Phàm là kẻ cầm bút có chính nghĩa, còn tình người, không ai là không căm hận ông Tố Hữu (tức nhà thơ Tố Hữu) đến tận máu tận xương. Ông ấy 1 tay giết chết hết bao nhiêu người con tài hoa, nặng nợ với non sông, Tổ Quốc qua chiến dịch "Trăm Hoa Đua Nở" mà bi thảm nhất là nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Nhiều người đã bị kết cho đủ mọi thứ tội họ không bao giờ phạm, mà nhiều nhất là tội "Âm mưu chống phá Đảng" (hệt như thủ đoạn thanh trừng của Từ Hi Thái Hậu) mặc dù những người này một lòng trung thành, hi sinh một đời với Đảng, với Cách Mạng, và Hồ chủ tịch. Họ hoặc bị "tử" mà không có "xử" hoặc được nhét vào Hỏa Lò sống vật vờ như loài vật. Nhiều người "được" ông Tố Hữu "ân cần" đưa "đi thực tế" khổ sai mà buồn cười là bản thân ông Tố Hữu thì chưa bao giờ biết thế nào là thực tế. Tất cả những người cầm bút, bất kể là văn nhân thi sỹ hay nhà báo dịch giả, miễn bị nằm trong cái gọi là, "đối tượng cần được chú ý" thì đều bị treo bút, có khi 10 năm, có khi 20 năm, có khi cả đời. Mà với người cầm bút, một khi không được sáng tác, người ta có thể coi là họ đã chết rồi! Dù xác thịt không thối rữa, nhưng đời sống vật vờ, lay lắt, mục rữa tài năng và chí khí ấy còn bi thảm hơn là cái chết gấp nhiều lần. Vậy nên TD mới dám khẳng định ông Tố Hữu 1 tay đã giết chết biết bao người con ưu tú của tổ quốc. Chẳng trách sao nhà thơ Xuân Sách cay nghiệt với ông đến thế!

Tố Hữu thường được sách giáo khoa suy tôn là ngọn cờ đầu trong phòng trào thơ hiện đại, song, nếu ai nặng nợ với văn chương thì sẽ thấy, chính những người bị ông Tố Hữu bẻ bút mới là ngọn cờ đầu trong phong trào thơ hiện đại. Thơ của họ sáng tạo cả về ngữ nghĩa lẫn cách dùng từ, đoan chính cả về hình thức lẫn nội dung, gói ghém cả tài năng lẫn tấm lòng, chuyên chở cả suy tư lẫn đam mê. Thơ của Tố Hữu, trái lại, lại chỉ là 1 mớ bòng bong ngôn từ nặng tính truyền bá và nịnh hót. Trái ngược hẳn với TNDH, TD, dù đã được đọc và biết nhiều về Tố Hữu cũng như các tác phẩm của ông, có thể coi là tương đối nhiều hơn các bạn học cùng trang lứa, TD đã nộp giấy trắng trong 1 bài luận về 2 câu thơ của ông. Ở trong trường, khi người ta nói đến luận văn, không có nghĩa là học sinh được quyền bàn luận về văn chương, nghĩa là học sinh không được quyền nói lên những suy nghĩ của mình, đánh giá của mình, mà chỉ được dùng cái tài ba hoa của mình để tâng bốc theo 1 lề lối đã định sẵn, nói tóm lại, và nói nôm na là "hợp với tư tưởng, đường lối chung".

Đó là hai câu thơ:
Ví không có cảnh đông tàn
Thì sao có cảnh huy hoàng ngày xuân
(hai câu thơ này đã được bạn Denish quote 1 lần trong 1 bài viết, nếu bạn có đọc được bài viết này, TD mong bạn đọc với con mắt, và trái tim, của một người biết lắng nghe, còn chấp nhận hay không, không ai làm gì được bạn).

TD còn nhớ rõ thầy giáo hỏi TD vì sao lại bỏ giấy trắng, TD đứng lên trước cái nhìn ngơ ngác của đám bạn học, người vẫn còn run từng hồi vì những xúc cảm đan xen, buồn có, căm có, tiếc thương có, khinh miệt có, mà sợ hãi cũng có, vượt quá sức chịu đựng của một đứa trẻ 14 tuổi. Tuy run, nhưng TD cũng vẫn dõng dạc, đại thể là "thưa thầy, 'ví không có cảnh đông tàn, thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân' câu ấy không thể đúng được! Đúng là chỉ khi trải qua 1 mùa đông rét mướt, người ta mới biết trân quý cái mua xuân ấm áp, từng bừng, chan hòa mà người ta có được. Đúng là nếu không có 1 mùa đông lạnh lẽo, điêu tàn, chết chóc thì người ta không thể có được cái cảm giác sướng vui tột đỉnh khi xuân về. Song, mua đông chỉ làm được đến vậy, chỉ làm cho sự tồn tại của mùa xuân thêm ý nghĩa chứ không nhất thiết cứ phải có mùa đông thì mới có mùa xuân. Nếu nhất thiết phải làm ra 1 mùa đông dài rét mướt, điêu tàn, khiến biết bao nhiêu sinh linh phải chết, cả người ta lẫn cây cỏ, chỉ để phục vụ cho cái mục đích là làm cho mùa xuân thêm huy hoàng rực rỡ thì điều ấy là quá độc ác. Không, quyết không phải là phải có đông tàn, mới có huy hoàng ngày xuân như Tố Hữu khẳng định trong câu thơ. Thầy lớn tuổi hơn em, học rộng hiểu nhiều hơn em, thầy chắc chắn hiểu rằng bài thơ này không phải chỉ nói về thời tiết, khí hậu, sự luân chuyển bốn mùa, câu thơ hàm ý rằng để có 1 mùa xuân cách mạng huy hoàng rực rỡ, thì theo Tố Hữu là đau thương mất mát là điều không thể tránh khỏi. Thưa thầy, để có 1 mùa xuân Cách Mạng, ông ấy đã nhẫn tâm hô hào giết chết bao nhiêu người trong phong trào cải cách ruộng đất, một phong trào mà con đấu cha, vợ đấu chồng, một phong trào mà trẻ thơ hò hét khoái chí khi thấy đầu rơi máu chảy, một phong trào mà sự tàn nhẫn, lòng thú tính của con người được khơi gợi và khuyến khích mà nói như ông Trường Chinh là 'thà giết nhầm còn hơn bỏ sót'. Gia đình em có cụ nội bị cho là địa chủ, bị trói cho ngồi trên 1 ổ kiến lửa. Vào cái thời mà người còn không đủ cái ăn, kiến lửa cũng bị bỏ đói, hai tuần sau người ta chỉ còn thấy 1 bộ xương khô, 1 ít quần áo tả tơi và 1 nắm tóc trên cái sọ trắng hếu! Đảng nhận mình sai, Đảng bào chữa chỉ với 1 câu hi sinh vì Cách Mạng, 'ví không có cảnh đông tàn, thì sao có cảnh huy hoàng ngày xuân'. Bây giờ thầy còn bảo em ca tụng 2 câu thơ đó, em làm không được, một con người con nhân tính không nói được 2 câu trơ trẽn ấy, không quyết không nhất thiết phải có cảnh đông tàn mới có cảnh huy hoàng ngày xuân!" TD nói xong thì không chịu nổi, chạy thẳng ra khỏi lớp và đứng khóc 1 mình.

Người ta nói trong công cuộc đấu tranh, bao giờ cũng có sai lầm, đối với công cuộc cải cách ruộng đất, Đảng đã biết sai, và đã nhận lỗi, sai, nhận lỗi, rồi xin lỗi có khiến cho hơn 500,000 người chết oan sống lại? Có thể lấy lại được tính người của bao nhiêu đứa trẻ ngây ngô reo hò cổ vũ khoái trá khi thấy những người thân quen bị quốc rìu bổ vào đầu, chết đi sống lại máu tươi lênh láng vì kẻ đao phủ không nỡ nặng tay?
Ấy là giả Đảng thật sự biết sai và hối cải, nhưng thực tế cho thấy rằng đó chỉ là ảo tưởng, vì sau đời ông Hồ Chí Minh, đến thời ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, Bắc Việt lại sảy ra 1 cuộc thanh trừng đẫm máu khác không ồn ào như cuộc cải cách ruộng đất, nhưng cũng dã man tàn bạo và bất nhân không kém, núp dưới chiêu bài "xét lại chống Đảng". Rút kinh nghiệm lần trước cuộc thanh trừng này đã được che đậy kỹ, chỉ là những vụ "bắt khẩn cấp" (từ ngữ thời bấy giờ, tức là bắt có tuyên lệnh), hay bắt cóc, và "xử nội bộ" (buộc đá thả sông).

Khi đọc lá thư của bé Quế Chi gửi Osama Binladen, TD không khỏi xót xa, em lên án Bin Laden, nhưng tổng số người bị chết trên 2 chiếc máy bay và tòa tháp đôi có là gì! Có là gì! Có là gì so với đồng bào mình bị giết trong 2 cuộc thanh trừng, có là gì so với đồng bào mình bị giết trong chiến dịch Mậu Thân, trong mùa hè đỏ lửa, trên đại lộ kinh hoàng, có là gì! Em nhìn cho kỹ đi, để xem kẻ nào mới là kẻ nhân danh chính nghĩa mà làm chuyện tán tận lương tâm! Em nhìn cho kỹ đi! Để xem kẻ nào mới là trùm khủng bố! Ừ, đúng là Mỹ-Ngụy cũng gây ra nhiều chết chóc tang thương trong những cuộc bỏ bom, nhưng họ đã phải chịu báo ứng rồi, họ đã chịu tiếng chửi rủa kinh miệt suốt hơn ba mươi năm nay, cũng cùng cái cách, cùng cái giọng điệu mà Bin đã được 1 đứa bé 15 tuổi "dạy", họ và con cháu họ đã phải sống mà không có quê hương rồi. Những người chết dưới tay Osama Binladen họ được trên minh bạch, trong sạch, thân nhân của họ được cả chính quyền và xã hội chia sẻ, cảm thông những mất mát đau thương, họ được ưu ái trên nhiều phương diện phúc lợi xã hội. Còn những người Cộng Sản chân chính bị chết dưới ta của những Cộng Sản mà họ từng 1 thời dành cho 2 tiếng thiêng liêng "Đồng chí", những người dân bị ghép cho tội cường hào ác bá, và vô số những người chẳng cần phải ban cho họ 1 cái tội để mà giết, họ chết không minh bạch, họ chết mà còn phải gánh cái tội họ không làm, em ạ, bạn bè, thân quyến không được tiếc thương, nếu có đau lòng cũng phải đau lòng lén lút. Em nhìn cho kỹ đi, để nếu lần sau được viết lại 1 lá thư với cùng một đề tài, em sẽ có sự cân nhắc chín chắn hơn xem ai mới là kẻ xứng đáng nhận lá thư dạy dỗ ấy của em!

Xin mượn lời Vũ Thư Hiên để kết thúc những suy nghĩ cá nhân của TD về Tố Hữu: Quá khứ sẽ chẳng có ích cho ai bởi nó chỉ là sự hồi tưởng đơn thuần. Quá khứ chỉ có ích khi con người lấy nó làm cái để mà suy ngẫm, rút ra từ trong lòng những sự kiện của nó bài học cho tương lai. Chỉ vì lịch sử thường có sự lặp lại, cho nên tôi muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo."

Những việc mình làm sẽ còn lại mãi với thời gian để người đời đời đàm tiếu. Tố Hữu khi còn sống chắc không tưởng tượng được rằng khi ông chết, dù đã nhiều chục năm, người ta vẫn réo tên ông mà mỉa. "Chỉ vì lịch sử thường có sự lặp lại" hãy sống sao để bản thân mình không phải là sự lặp lại của những điều đáng buồn.

TD
* : Nhân Arkain có thắc mắc về chuyện dùng dấu ngoặc kép khi hành văn, xin nói luôn là trong trường hợp này TD dùng dấu ngoặc kép với từ "giác ngộ" vì thực sự không biết ông Tố Hữu giác ngộ triết học Mác-Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông hay giác ngộ con đường đưa ông lên thảm đỏ của địa vị và quyền lực.

Chủ ý viết bài này để tặng lại cho chủ quán, nhưng quê rồi, không tặng nữa, lấy lại!

yeucine
07-07-2008, 20:04
@ TD: Tiếc quá! Tiếc quá!

edavn
07-07-2008, 20:19
@ TD: Tiếc quá! Tiếc quá!

Lão tiếc rì thế? tiếc TD hay TH?
:lick::lick::lick:

yeucine
07-07-2008, 20:41
Lão tiếc rì thế? tiếc TD hay TH?
:lick::lick::lick:
Hãy để hồn thơ lai láng mãi
Quên đi bỉ cực cõi trần ai:w00t:

thagnv
07-07-2008, 21:42
Hic hic... cám ơn bác TD, bài viết này hay quá... :(

cu em
07-07-2008, 22:04
@ tiểu dần: cảm ơn đã mở mắt cho cu .... em. :rolleyes:

tiểu dân
08-07-2008, 03:01
Yeucine: Người ta có thể rộng lượng mà quên đi, không tính tới, nhưng người ta phải biết :) Những người lớn tuổi được nể trọng vì họ hiểu biết nhiều. Chính trí thức, chứ không phải là tuổi tác, làm cho người ta trưởng thành. Nếu tri thức cho người ta khôn lớn thì lòng khoan dung kiến cho họ trở thành những Con Người thực sự. Con người cần phải khoan dung, nhưng quyết không được thờ ơ!
Bạn chẳng việc gì phải tiếc cho TD, vì TD không nuôi sống mình bằng lòng thù hận :)

Gà: Cám ơn đã đọc bài viết, lần trước Gà mới hỏi vì sao dạo này không thấy viết blog, thì bây giờ viết bù nè ^^

Carbon: Phải chăng bạn định nói "nhưng không khỏi khiến người khác khó chịu" ? Dù sao cũng cám ơn bạn đã chiếu cố đến bài viết, TD đủ tự trọng để không bán rẻ danh dự của mình bằng những lời lẽ vu khống không có căn cứ. Vốn là người không nói càn, nói bừa, nói lấy được, lại luôn tâm niệm tử giả bất luận, nên mỗi khi nhận xét không hay về 1 người đã khuất, TD luôn cảm thấy không nên không phải nên nếu có nói gì thì thường phải đắn đo cân nhắc rất kỹ.

Cu em: Cháu thật lòng mong chú đừng nói vậy, tài, và đức của các chú cháu còn học đến bao giờ mới sánh kịp. Chú càng yêu mến mà khen cháu, cháu lại càng buồn thôi. Mỗi khi đọc lá thư của bé Quế Chi, cháu lại thấy thương bản thân mình. Cũng là học sinh chuyên văn, mà sao cái tuổi 15 của em ấy lại hồn nhiên lại trong sáng đến vậy, trong mắt em ấy còn ngập đầy hoa và nắng, trái tim 15 tuổi ấy còn tỏa sáng, thứ ánh sáng trong trẻo thuần khiết. Còn cái tuổi 15 của cháu lại sần sùi chai sạn, trái tim 15 tuổi của cháu lại chìm sâu dưới đầm bùn, mỗi một nhịp đập là 1 lần luân chuyển thứ máu tanh của cả người chết lẫn kẻ sống từ nhiều chục năm trước, thời của ông bà, cha mẹ. Niềm yêu mến văn chương từ khi mới biết đọc cho cháu bén duyên với những Tô Hoài, Thanh Tịnh, Thạch Lam, rồi thì lớn hơn một chút là Nguyên Hồng, Nam Cao, Văn Cao. Chỉ có điều cháu không ngờ được là chính niềm yêu mến ấy lại dẫn cháu đi hết kinh hoàng này đến kinh hoàng khác, thoắt ta, thoắt lại sang đến Tàu. Càng ngày cháu càng nhận ra rằng mỗi một trang sách, dù là về tình yêu hay cuộc sống, về chân lý hay hoài bão, về thực tại hay mơ ước đều gói ghém trong nó trăn trở có, xót xa có, mà tàn nhẫn, bất nhân cũng có. Lúc bấy giờ cháu mới 12, 13 tuổi, cái tuổi mà khi viết văn bình luận, học trò được phép xưng "tôi" chứ không còn phải xưng "em" nữa. Cháu không dám mở mắt cho ai, chỉ hi vọng có thể tự mở mắt cho chính mình để đừng là cái lập lại đáng tiếc của những gì đã 1 lần sảy ra.

TNDH
08-07-2008, 09:52
Hic hic... cám ơn bác TD, bài viết này hay quá... :(
Tớ có cảm giác "gãi" đúng chỗ "bác" í ngứa, Gà ạ :lick:
Dù sao thì tớ cũng đã mào đầu:

mọi biện minh cho ông (hoàn cảnh; thời thế; nhận thức…) có lẽ sẽ không dễ gì được chấp nhận với những thế hệ đương thời. Tớ ví bài thơ như một tảng đá (không phải hạt sạn) khó mà "nhặt" ra trong văn nghiệp của ông.
Câu “Tử giả bất luận” nên chăng, có thể vận dụng cho ông qua bài này (và một vài bài nữa) vì bản thân ông khi sinh thời có thể cũng đã có nhiều ray rứt về chính nó.
@TD: Seo "bác" tặng rùi lại hổng tặng "chủ quán" :no:

[=========> Bổ sung bài viết <=========]


TD: bạn đem lại kiến thức cho nhiều người (dù chưa kiểm chứng) nhưng không khiến người khác khó khịu bởi quan điểm chủ quan của bạn. cảm ơn
Tránh những góp ý, trao đổi kiểu này, "người khác" là ai ? Tại sao "người khác" lại phải "mượn" bạn để trao đổi trong topic này ? :no:

thagnv
08-07-2008, 11:38
Gà: Cám ơn đã đọc bài viết, lần trước Gà mới hỏi vì sao dạo này không thấy viết blog, thì bây giờ viết bù nè ^^

Ôi trời... bác làm em xỉu mất... :emlaugh:
Mình đúng là còn ngây thơ quá xá... lol

TNDH
08-07-2008, 12:08
sao không làm thơ tả người làng nhỉ?
Nghe nhời bác Cắc-bon thời bắt chước cụ Xuân Sách, tớ mần 9 bãi tả lõng (hình như viết sai chính tả - bãi = bài, tả lõng không phải tả đặc/đặc tả) chân răng 9 vị nhơn vật Lờ Mờ, hậu quả:
Những vị bị tả:
a/ Không nhận ra mình,
b/ Đang nghi ngờ có phải mình bị tả,
Những vị không được tả hay chưa bị tả:
a/ À thì ra mình bị tả,
b/ Dịch tả lung tung đem râu bà nọ gắn cằm ông kia, gây hoang mang dư luận :-)
Thui thì bật mí luôn cho quý vị, hình 9 nhơn vật bị tả:


http://img513.imageshack.us/img513/2513/9nhanvatmd8.jpg

Lưu ý:
Các bác góp ý xem hình có lớn quá chăng ? Lớn quá tớ sẽ reside lại cho bé tí nữa :lick:

cu hí
08-07-2008, 13:55
Lưu ý:
Các bác góp ý xem hình có lớn quá chăng ? Lớn quá tớ sẽ reside lại cho bé tí nữa :lick:

Thầy ơi mắt con dạo này lên độ rồi, nhìn hoài hông ra nè :(

cu em
08-07-2008, 14:46
TD còn nhớ rõ thầy giáo hỏi TD vì sao lại bỏ giấy trắng, TD đứng lên trước cái nhìn ngơ ngác của đám bạn học, người vẫn còn run từng hồi vì những xúc cảm đan xen, buồn có, căm có, tiếc thương có, khinh miệt có, mà sợ hãi cũng có, vượt quá sức chịu đựng của một đứa trẻ 14 tuổi. Tuy run, nhưng TD cũng vẫn dõng dạc, đại thể là "thưa thầy, 'ví không có cảnh đông tàn, thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân' câu ấy không thể đúng được! Đúng là chỉ khi trải qua 1 mùa đông rét mướt, người ta mới biết trân quý cái mua xuân ấm áp, từng bừng, chan hòa mà người ta có được. Đúng là nếu không có 1 mùa đông lạnh lẽo, điêu tàn, chết chóc thì người ta không thể có được cái cảm giác sướng vui tột đỉnh khi xuân về. Song, mua đông chỉ làm được đến vậy, chỉ làm cho sự tồn tại của mùa xuân thêm ý nghĩa chứ không nhất thiết cứ phải có mùa đông thì mới có mùa xuân. Nếu nhất thiết phải làm ra 1 mùa đông dài rét mướt, điêu tàn, khiến biết bao nhiêu sinh linh phải chết, cả người ta lẫn cây cỏ, chỉ để phục vụ cho cái mục đích là làm cho mùa xuân thêm huy hoàng rực rỡ thì điều ấy là quá độc ác. Không, quyết không phải là phải có đông tàn, mới có huy hoàng ngày xuân như Tố Hữu khẳng định trong câu thơ. Thầy lớn tuổi hơn em, học rộng hiểu nhiều hơn em, thầy chắc chắn hiểu rằng bài thơ này không phải chỉ nói về thời tiết, khí hậu, sự luân chuyển bốn mùa, câu thơ hàm ý rằng để có 1 mùa xuân cách mạng huy hoàng rực rỡ, thì theo Tố Hữu là đau thương mất mát là điều không thể tránh khỏi. Thưa thầy, để có 1 mùa xuân Cách Mạng, ông ấy đã nhẫn tâm hô hào giết chết bao nhiêu người trong phong trào cải cách ruộng đất, một phong trào mà con đấu cha, vợ đấu chồng, một phong trào mà trẻ thơ hò hét khoái chí khi thấy đầu rơi máu chảy, một phong trào mà sự tàn nhẫn, lòng thú tính của con người được khơi gợi và khuyến khích mà nói như ông Trường Chinh là 'thà giết nhầm còn hơn bỏ sót'. Gia đình em có cụ nội bị cho là địa chủ, bị trói cho ngồi trên 1 ổ kiến lửa. Vào cái thời mà người còn không đủ cái ăn, kiến lửa cũng bị bỏ đói, hai tuần sau người ta chỉ còn thấy 1 bộ xương khô, 1 ít quần áo tả tơi và 1 nắm tóc trên cái sọ trắng hếu! Đảng nhận mình sai, Đảng bào chữa chỉ với 1 câu hi sinh vì Cách Mạng, 'ví không có cảnh đông tàn, thì sao có cảnh huy hoàng ngày xuân'. Bây giờ thầy còn bảo em ca tụng 2 câu thơ đó, em làm không được, một con người con nhân tính không nói được 2 câu trơ trẽn ấy, không quyết không nhất thiết phải có cảnh đông tàn mới có cảnh huy hoàng ngày xuân!" TD nói xong thì không chịu nổi, chạy thẳng ra khỏi lớp và đứng khóc 1 mình.


Đọc đến đây cu em rớt nước mắt.
Khóc cho TD, khóc cho hàng triệu triệu người cùng cảnh ngộ.
Tất nhiên cũng có triệu triệu người vui sướng vì không cùng cảnh ngộ, trong đó có bác cạt bòn nên phản ứng lại, đúng như lời cố TT VVK :"Có triệu người vui thì có triệu người buồn"

TNDH
08-07-2008, 15:55
Thầy ơi mắt con dạo này lên độ rồi, nhìn hoài hông ra nè :(
Nhìn ra thì con lên làm Thầy :lick:

em cu hí
08-07-2008, 19:00
Hình như ở giữa là cụ tổ của LM còn bên phải là ku Lác, phía trên là lão cá viên... đúng không thầy :(

TNDH
08-07-2008, 21:49
Hình như ở giữa là cụ tổ của LM còn bên phải là ku Lác, phía trên là lão cá viên... đúng không thầy :(
Đúng... :lick: thầy làm con

ViLead
08-07-2008, 23:24
"Đụng chạm" quá các bồ ơi

cu khoai
08-07-2008, 23:38
"Đụng chạm" quá các bồ ơi
đụng chạm gì bác ở đây, tớ đang mò vào L tìm mấy người trong ảnh hoài mà không ra nè :(

tiểu dân
09-07-2008, 00:50
Ông thày có PM bật mí là trong 9 cái mẹt mốc có 1 mẹt ông í thương thầm nhớ trộm lâu òi, muốn thổ lộ lắm cơ mà lại sợ bị đá ra khỏi chùa ... thiếu lương. Tu lâu thế, đã 46 cái mùa xu hào bắp cải rồi, chuẩn bị lãnh nguyên cái chùa rồi mà để bị đá ra thì kể cũng cú lắm chứ chẳng chơi, mà để lâu trong bụng thì nó sình bụng ợ chua khó chịu, đường nào cũng không xong thành thử ổng mới chơi ... nửa kín nửa hở (nửa kín nửa hở bao giờ cũng ******y nhất lol), quăng cho cái hình tí xíu, hi vọng "người trong hiểu rõ mặt ngoài ... làm thinh!" để ông thày 1 mặt vừa có thể xả được cái bầu tâm sự lâu nay cứ xình xình trong bụng (TD không có để cái dấu ngoặc kép, yêu cầu không xuyên tạc, giữ gìn sự trong sáng cho tiếng Việt!), một mặt có thể yên tâm lãnh nguyên cái chùa.

Nhưng đâu có dễ vậy! Nay TD kêu gọi đồng bào (tôi nói đồng bào nghe rõ không?) mau chóng xác định 9 cái mẹt mốc kia là ai (đã có 3 mạng được nhận mặt), bãi nèo tả khứa nèo, và quan trọng nhất là ai là kẻ (xui xẻo) lọt vào mắt đen của ông thày hầu có thể chặn đứng âm mưu một chùa một sãi một ni cô của ổng!

(Ông Thày, TD mở hàng quán đắt ghê chưa?!!)

thagnv
09-07-2008, 01:02
Lỡ coi vậy chứ ổng là gay thì sao?

wtuaans
09-07-2008, 07:39
Góc trên bên phải đó TD à! Vãi Xoan đó.

em cu hí
09-07-2008, 08:55
Góc trên bên phải đó TD à! Vãi Xoan đó.
Vậy à? sao không có đeo kính nhỉ?
Thế còn chính giữa hàng cuối là ai vậy bác?

TNDH
09-07-2008, 09:01
Ông thày có PM bật mí là trong 9 cái mẹt mốc có 1 mẹt ông í thương thầm nhớ trộm lâu òi, muốn thổ lộ lắm cơ mà lại sợ bị đá ra khỏi chùa ... thiếu lương.
Điêu :boxing:

Tu lâu thế, đã 46 cái mùa xu hào bắp cải rồi, chuẩn bị lãnh nguyên cái chùa rồi mà để bị đá ra thì kể cũng cú lắm chứ chẳng chơi, mà để lâu trong bụng thì nó sình bụng ợ chua khó chịu,
Hóng hớt ! :angry:

đường nào cũng không xong thành thử ổng mới chơi ... nửa kín nửa hở (nửa kín nửa hở bao giờ cũng ************************y nhất ),
Là… chơi mần răng hè :emlaugh:

quăng cho cái hình tí xíu, hi vọng "người trong hiểu rõ mặt ngoài ... làm thinh!" để ông thày 1 mặt vừa có thể xả được cái bầu tâm sự lâu nay cứ xình xình trong bụng (TD không có để cái dấu ngoặc kép, yêu cầu không xuyên tạc, giữ gìn sự trong sáng cho tiếng Việt!), một mặt có thể yên tâm lãnh nguyên cái chùa.
Mẻ hỉu mìn hơn mìn, khíp :emlaugh:

Nhưng đâu có dễ vậy! Nay TD kêu gọi đồng bào (tôi nói đồng bào nghe rõ không?)
Ôm tủ lạnh mẻ mơ làm lãnh tụ, chớ :yes:

mau chóng xác định 9 cái mẹt mốc kia là ai (đã có 3 mạng được nhận mặt),
Đọc mà rùng cưả mìn, tưởng tai nạn nghiêm trọng, cần thân nhân đến nhận mẹt :emlaugh:

bãi nèo tả khứa nèo, và quan trọng nhất là ai là kẻ (xui xẻo) lọt vào mắt đen của ông thày hầu có thể chặn đứng âm mưu một chùa một sãi một ni cô của ổng!
Đừng nghe những gì mẻ xúi :lick:

Ông Thầy, TD mở hàng quán đắt ghê chưa
CẦN SANG QUÁN

tiểu dân
09-07-2008, 10:48
:) .

thanhsoros
09-07-2008, 11:00
Signature của bạn tieudan nghe hay hay nhỉ lol

TNDH
10-07-2008, 10:16
NÓI THÊM VỀ TỐ HỮU (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%91_H%E1%BB%Afu)LÚC "HOÀN DÂN"


Phùng Quán: 3 phút sự thật – Xông đất nhà thơ Tố Hữu
Trích:


Sáng mùng một Tết năm Canh Ngọ. Như thường lệ, vợ chồng chúng tôi xuất hành vào 9 giờ sáng, đến chúc Tết các gia đình họ hàng nội ngoại. Năm đó chúng tôi quyết định xông đất đầu tiên gia đình nhà thơ Tố Hữu.
Trong mối liên hệ gia tộc, tôi gọi nhà thơ bằng cậu. Theo phong tục miền Bắc, tôi phải gọi bác, vì nhà thơ là anh em cô cậu ruột với mẹ tôi. Cậu là con út trong gia đình, hàng cháu chúng tôi vẩn quen gọi cậu út. Mọi năm, trên đường đi chúc Tết, tôi thường vẫn đi xe đạp ngang qua trước cổng biệt thự của nhà thơ trên đường Phan Đình Phùng. Cảnh tượng tưng bừng, tấp nập trước cổng biệt thự tôi không tả nổi; chỉ đoán chắc cả Hà Nội cũng chỉ năm bảy nhà sánh kịp mà thôi. ô tô con đủ hình dáng, màu sắc, nhãn hiệu, choáng lộn như vừa xuất xưởng, đỗ một hàng dài san sát. Những bó hoa tươi thật lớn, thật rực rỡ, được đưa từ trên xe xuống… Công an mặc lễ phục đi lại dọc vỉa hè. Lính cảnh vệ oai nghiêm bồng súng đứng gác bên cổng sắt đồ sộ. Người ra người vào nườm nượp, mặc toàn đồ lớn, nét mặt hồng hào rạng rỡ, đầy vẻ trịnh trọng có pha chút khúm núm. Ngang qua đó, không hiểu sao tôi cứ có cảm giác sờ sợ, đầu không khiến mà chân cứ tự động đạp xe dạt sang bên kia đường.
Nhưng Tết này, trước cổng biệt thự của nhà thơ quang cảnh vắng teo. Không có chiếc ô tô con nào, không công an cũng chẳng lính cảnh vệ. Cái cổng sắt mọi ngày nom như hẹp hẳn lại, hai cánh cửa khép hờ, ai vào cứ việc đẩy cửa mà vào y như thể dân thường. Hai vợ chồng chúng tôi xuống xe đạp đửng tần ngần một lúc trước cổng sắt.
"Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương…
Hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan bỗng đột ngột hiện ra trong trí nhớ của tôi với toàn bộ vẻ đẹp u trầm và sâu sắc đến kinh người của nó.
"Tết này là đúng ba mươi hai cái Tết anh không đến chúc Tết cậu" - tôi nói với vợ, tay khẽ khàng đẩy cánh cổng sắt. Chúng tôi dắt xe qua khoảng sân lốm đốm những mảnh rêu, dựa xe vào tường dãy nhà ngang dài tít tắp, cuối dãy nhà là gara ô tô. Dãy nhà ngang này, mới năm ngoái năm kia, còn người ra người vào tấp nập, vang vang tiếng chuông điện thoại, tiếng "Alô, tôi nghe đây", tiếng máy chữ lách cách liên hồi; trong gara ngự một chiếc ôtô đen choáng lộn, nhìn thắng ra cổng với cặp mắt đèn pha sáng quắc, uy nghi. Bây giờ các cửa phòng đều đóng kín, trong gara đậu một chiếc xe con nhỏ thó, màu trắng đục.

Cũng là người làm thơ, nghe người phụ nữ kiên cường này nói về sức mạnh lớn lao của thơ, tôi thầm ao ước cả đời mình chỉ nhận được một phần mười của lời khen tặng đó - "Mọi năm, Tết nào anh cũng có thơ Xuân - chị Nẻ lại hỏi tiếp - Sao vài năm nay anh không có thơ Xuân?". "Tết này tôi cũng có làm một bài, ngắn thôi, thơ tứ tuyệt…". Vợ tôi nói: "Xin cậu đọc cho chúng cháu nghe với". Nhà thơ cười cười, đọc bài thơ với giọng Huế đặc sệt: "Đầu đề bài thơ là "Anh bộ đội mua đồng hồ". Xin lưu ý là "anh bộ đội" nghe: Có anh bộ đội mua đồng hồ - Thiệt giả không rành anh cứ lo - Đành hỏi cô nàng, cô tủm tỉm; từ "tủm tỉm" của tôi là đắt lắm đấy. "Giả mà như thiệt khó chi mô!". Nhà thơ đọc lại lần thứ hai, nhấn mạnh từng từ một.
Khách khứa nghe cũng đều cười tủm tỉm, nhưng không ai bình luận gì hết. Tôi thì đoán họ đều như bị hẫng. Vì giọng thơ khác lạ biết bao so với giọng thơ quen thuộc của nhà thơ trước đây. Chào 61 đỉnh cao muôn trượng, câu thơ sáng khoái của nhà thơ trong "Bài ca Xuân 61" được nhiều người hệt vào những câu thơ sấm ngữ. Riêng tôi, bài thơ này làm tôi nghĩ ngợi phân vân: có lẽ nào một nhà chính trị, một nhà thơ từng trải, thông minh như cậu mà mãi cho đến lúc bước vào tuổi bảy mươi mới bắt đầu ngấm cái đòn-giả-thật? Hay cậu đã ngấm từ lâu nhưng phải đến hôm nay, khi không còn hệ lụy gì nữa, mới có dịp bộc bạch với mọi người?

Sau khi khách khứa ra về, chỉ còn lại ba cậu cháu. Tôi đã uống đến ly Ararat thứ năm. Rượu bắt đầu ngấm làm tôi trở nên mạnh dạn. Tôi hỏi nhà thơ câu hỏi tôi muốn hỏi từ lâu: "Thưa cậu, cháu rất muốn biết, bây giờ thực sự cậu mong muốn điều gì?". Một thoáng trầm ngâm, nhà thơ nói: "Cậu ao ước còn đủ sức khỏe, đạp một chiếc xe đạp về trong quê mình, sống lại kỷ niệm của thời ấu thơ, thời hoạt động sục sôi của tuổi thanh niên, rồi đặt những bài vè như Mẹ Suốt, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Nước non ngàn dặm… tìm đến nơi có đồng bào, bà con tụ tập, đọc lên cho bà con nghe… Cậu mong muốn được làm người hát rong của nhân dân".

Nghe nhà thơ tâm sự mắt tôi tự dưng mờ lệ, lòng quặn thắt cảm thương người cậu của tôi sang Xuân này, bước vào tuổi bảy mươi đã trở lại nguyên vẹn một nhà thơ, một NHÀ THƠ viết hoa.
Có lúc nhà thơ đã đạt đến chức Tam Công trong bộ máy quyền lực của đất nước, nhưng cuối đời lại chỉ mong ước được làm một nghệ sĩ hát rong của nhân dân mà không hy vọng thực hiện được. Trong khoảnh khắc đó, lần đầu tiên tôi lĩnh hội được hết vẻ cao sang của thi ca đích thực.
Vợ chồng tôi xin phép cậu ra về để còn đi chúc tết nhiều gia đình khác. Nhà thơ đứng lên tiễn chúng tôi và dặn: "Khi nào có thì giờ hai vợ chồng đến chơi với cậu. Cậu thường rảnh vào buổi chiều". Nhà thơ khoác vai tôi một bên, vợ tôi một bên lững thững đi ra cổng. Bước xuống khỏi những bậc tam cấp nhà thơ nói với vợ tôi: "Thằng Quán nó dại…". Khi ra gần đến cổng sắt, nhà thơ dừng lại, nói tiếp như vẫn không dứt dòng suy nghĩ của mình: "… mà cậu cũng dại…". Mấy ly rượu Ararát làm cái lưỡi tôi trở nên phóng túng, tôi bật cười to: "Thưa cậu, thì chính cậu đã viết điều đó thành thơ từ nửa thế kỷ trước: Ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần!"
Xuân Tân Mùi, 1992

Nhớ Tố Hữu – Nguyễn Quang Lập
Trích:


Thằng Thiều cũng gặp Tố Hữu loáng thoáng như mình thôi mà viết bài về ông hay quá, không biết nó có bốc phét không mà sâu sắc cảm động thế không biết. Mình cú, định viết bài đấu lại nó, nhưng lại nghĩ xưa ông sống thì không viết, giờ ông chết rồi có viết kiểu gì người ta cũng cho mình nói phét, nên thôi. Nhưng sáng nay tự nhiên muốn viết về ông quá, định bụng 5,6 giờ chiều mới viết blog, nhưng mót viết chịu không nổi. Thế là víêt luôn.
Mình có tính cục bộ, phàm ai là người Quảng Bình họăc yêu quí Quảng Bình mình đều quí mến cả. Thời chiến tranh Tố Hữu còn quá người Quảng Bình, ăn dầm ở dề trong bom đạn với dân Đồng Hới, dân Bảo Ninh có khi cả năm trời. Tiếng là ngựa xe chứ chỉ xe U oat thôi, xe volga đường chiến tranh làm sao đi được. Thứ xe U oat bây giờ có đem cho tụi trẻ chúng nó còn mắng cho. Còn yến tiệc thì nói cho sang, thực ra mấy miếng thịt lợn, bò kho kho xào xào, trẻ con nhà mình dỗ mãi chúng nó mới chịu ăn.
Vì thế dù ai nói đông nói tây mình vẫn qúi Tố Hữu như thường. Thời chiến tranh dượng mình ( Cổ Kim Thành) làm chủ tịch tỉnh, một hôm đến nhà dượng chơi thấy một người đang ngồi với dượng nói chuyện gì đó rất hăng. Cả nhà đi lại cứ nem nép. Mình hỏi thằng Vượng ai đó. Nó bảo Tố Hữu. Mình lạnh người, đứng lặng ngắt. Quá vinh hạnh thấy được Tố Hữu bằng xương bằng thịt. Mình đứng nép trong buồng nhìn ra, ngắm ông say sưa cho đến khi ông đi rồi vẫn đứng lặng ngắt. Mình về Ba Đồn khoe gặp Tố Hữu với tụi bạn, bóc phét nói Tố Hữu ôm mình, cho ngồi trên đùi dặn này nọ, tụi bạn ngưỡng mộ mình lắm. Thực ra có gặp cóc khô đâu, chỉ nhìn trộm ông thôi, hi hi. Gần ba chục năm sau về làm báo Văn Nghệ mình mới thực sự gặp ông. Báo Văn nghệ có tục cứ đến 28, 29 tết là tổ chức ăn tết toàn cơ quan. Vị khách số 1 không bao giờ vắng là Tố Hữu, vì ông là sư tổ của báo. Chương trình có 3 phần, năm nào cũng giống năm nào, đầu tiên là nhậu nhẹt, sau đó nghe Tố Hữu nói chuyện, cuối cùng là chơi trò đố vui có thưởng.

Hồi đó Tố Hữu đã rời chính trường, nghe nói phụ trách ban chiến lược quốc gia gì đó nhưng thực ra là ngồi chơi xơi nước thôi. Năm đầu tiên mình thấy lạ là hễ Tố Hữu ngồi mâm nào, mấy ông anh trong báo kính cẩn khúm núm nhưng mắt trước mắt sau chuồn đi cả.
Hữu Thỉnh chỉ ngồi với ông có 5 phút rồi nhảy đi mâm nọ mâm kia chúc mừng anh em, kì thực là để tránh nói chuyện với ông. Nhìn đi nhìn lại không thấy ai, ông đi đến mâm mình, khi đó cũng chỉ mình và vài người. Mấy người này kính cẩn “dạ anh” rồi cũng lẹ làng biến đi, chỉ còn mình trơ khấc. Ông không hỏi mình tên gì mà hỏi mình quê đâu. Mình nói thưa chú cháu quê Quảng Bình. Mắt ông sáng lên và ông bắt đầu nói. Ông nói nhỏ, đều đều, hết đông sang tây, hết chuyện Quảng Bình sang chuyện thế sự. Ông nói chuyện thế sự hệt mấy ông hưu trí phường nói chuyện thế sự, đại khái ngày xưa thế này thế kia, bây giờ mấy ông trên kia... ông chỉ ngón tay chỉ chỉ về phía Bắc, lăc đầu, rồi dừng lời. Lúc đầu mình nghe rất hào hứng, dù gì cũng được Tố Hữu cho nói chuyện, nhưng sau ông nói dài quá, lặp nhiều quá, đâm nản. Quanh đi quẩn lại cũng ngày xưa thế này thế kia, bây giờ mấy ông trên kia...Bảo Ninh thấy mình chịu trận, đứng nép ở cửa cười thích chí, dẩu mồm nói thầm: cho mày chết! Cho mày chết! Tức khí mình nhảy ra kéo Bảo Ninh vào, nói: dạ thưa chú đây cũng là nhà văn người Quảng Bình, con bác Hoàng Tuệ. Tố Hữu bắt tay: à, Hoàng Tuệ à! Mình tót lẹ ra cửa đứng nép nhìn Bảo Ninh chịu trận, cười khoái trá. Bảo Ninh khúm núm nghe, à dạ vâng rồi tranh thủ ông không để ý, ngoảnh về phía mình chửi thầm: “ đm mày” rồi vội vàng ngoảnh lại à dạ vâng bất kể Tố Hữu đang nói gì, có khi ông chưa nói xong câu nó đã à dạ vâng rồi lại ngoảnh về phía mình chửi thầm đm mày! Nó càng chửi mình càng sướng he he. Mãi sau, nó vừa à dạ vâng vừa chắp tay giấu dưới gầm bàn lạy mình như tế sao, xin mình cứu cho.Cuối cùng mình cũng đi vào nói thưa chú anh Hữu Thỉnh đang đợi chú rồi dìu ông vào phòng Hữu Thỉnh. Hửu Thỉnh đang ngồi đọc cái gì đó, vò đầu bứt tai ( cái anh này lúc đ... nào cũng đọc được, rảnh phút nào là nhảy vào phòng đọc bài ngay), thấy Tố Hữu vào anh vụt đứng dậy reo to: A, anh! Tiếng reo mừng hồ hởi phấn khởi như thấy bố anh từ vạn kiếp trở về. Ôi thiên tài Hữu Thỉnh. Năm sau vẫn vậy, đầu tiên là nhậu nhẹt, sau đó Tố Hữu nói chuỷện, cuối cùng là đố vui có thưởng. Món đố vui có thưởng anh em rất thích, ai cũng muốn mình kiếm được giải thưởng tranh Thành Chương về treo. Nhưng Tố Hữu nói dài quá. Mặc dù Hữu Thỉnh đã nhắc khéo: Anh Tố Hữu đang rất rất bận, anh chỉ nói chuyện với anh em có 10 phút thôi. Nhưng Tố Hữu đâu có thèm chấp, ông chơi cả 100 phút không dừng. Anh em nói chuyện ồn ào như vỡ chợ ông vẫn cứ nói. Trương Vĩnh Tuấn đi vào đi ra mặt nhăn như bị, đã gần 10 h rồi mà còn một tiết mục nữa. Bỗng có ai đó tắt phụt micro, tưởng ông dừng hoá ra ông vẫn không thèm chấp, vẫn cứ nói. Cho đến khi ai đó cúp cầu dao điện, cả toà soạn tối om, ông mới dừng. Hữu Thỉnh đưa ông xuống cầu thang, mình lúc cúc chạy theo sau. Hữu Thỉnh nói tiếc quá anh nói đang hay lại mất điện. Tố Hữu không nói gì, chắc ông cũng biết, vì cả khu Trần Quốc Toản điện đóm vẫn sáng trưng. Thực lòng khi đó mình rất thương ông. Vẫn biết mình đến tuổi như ông thì còn lẩn gấp 10 ông nữa nhưng vẫn thương ông quá. Giá ông đừng làm quan, chỉ làm thơ thì hay biết bao nhiêu

Ghi chú: những chữ tô đậm là do tớ:yes:

dinhbaochau
10-07-2008, 11:38
Một vài truyện đã đọc, một vài câu đã xem và một vài từ đã nghe, vừa đủ để nhận ra... một vài tác giả:

98. Xuân Quỳnh
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
Biển một bên và em một bên.

Thầy ơi!

Thầy làm sao mà lộn lèo hết trơn vậy. Bài này tựa "Thơ tình người lính biển" (Có phổ nhạc) Của Trần Đăng Khoa chứ sao lại cắm vào cằm của bà Xuân Quỳnh vậy :lick:
Hổng biết phải hông nữa ...he he he

TNDH
10-07-2008, 13:37
Thầy ơi!

Thầy làm sao mà lộn lèo hết trơn vậy. Bài này tựa "Thơ tình người lính biển" (Có phổ nhạc) Của Trần Đăng Khoa chứ sao lại cắm vào cằm của bà Xuân Quỳnh vậy :lick:
Hổng biết phải hông nữa ...he he he
Xin lỗi bác Râu,tớ đã nhận... vơ:

http://img148.imageshack.us/img148/6748/vuquynhbq5.jpg


Số phận nghiệt ngã đã không cho hai con người tài năng này kịp sống hết những năm tháng của đời mình. Anh chị mất đi vào lúc sức sáng tạo dồi dào, tài năng đang độ chín.

Lưu Quang Vũ là “cha đẻ” của hơn 50 vở kịch vở kịch đình đám như Sống mãi tuổi 17, Tôi và chúng ta, Cô gái đội mũ nồi xám, Nàng Si-ta, Hoa cúc xanh trên đầm lầy, Ðôi dòng sữa mẹ, Trái tim trong trắng, Lời thề thứ 9, Ðiều không thể mất..

Còn Xuân Quỳnh là “mẹ ruột” của những bài thơ đi vào lịch sử thi ca Việt Nam như Chồi biếc, Sóng, Thuyền và biển, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Sân ga chiều em đi…

Cùng những tác phẩm để đời của mình, Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ đã trở thành một cặp vợ chồng vàng của giới nghệ thuật. Tên của họ luôn được nhắc liền với nhau

Ngày 29/8/1988 một tai nạn ô tô thảm khốc đã giáng xuống gia đình Quỳnh – Vũ. Anh chị cùng con trai Quỳnh Thơ ra đi trong sự bàng hoàng của giới nghệ thuật và người hâm mộ.


CHÚT THƠ TÌNH NGƯỜI LÍNH BIỂN

Nhạc: Hoàng Hiệp - Thơ: Trần Đăng Khoa


Khi chia tay anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên
Biển ồn ào, em lại dịu êm
Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên

Cho dẫu mai đây xa ánh đèn thành phố,
anh đến buông neo nơi thăm thẳm ánh sao trời
Anh vẫn thấy đời không lẻ loi
biển một bên và em một bên

Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên,
cơn bão chưa ngưng trong tâm hồn biết bao người
Anh đứng gác trời khuya đảo vắng
biển một bên và em một bên

Cho dẫu nơi kia thôi không còn biển nữa
không có em yêu anh chỉ còn với c��?
Cho dẫu thế thì anh vẫn nhớ biển một bên và em một bên
Biển một bên và em một bên ....

unlucky555
13-07-2008, 09:18
9 khuôn mẹc nhận diện được 3 và 2 khuôn mặt nữ đó là: venus
Người còn lại thì kiểu gì cũng nhận ra đó là swan

Anh sẽ đi tìm em thêm kiếp nữa
để em sẵn lòng thêm kiếp nữa chờ anh.....

thế đấy cả giấc mơ còn không lành lạnh
cả cuộc đời lỗi hẹn với đam mê

TNDH
14-07-2008, 16:00
Bồi trong tiếng Việt có nhiều nghĩa, trong bài này tớ chỉ nói ở nghĩa Bồi là người làm phụ cho một công việc gì đó, ví dụ: Bồi Bếp, Bồi Bàn, Bồi Tàu, Bồi Buồng, Bồi Khách sạn… Những danh từ đi sau chữ bồi hầu hết là những nghề lương thiện. Những ông/bà/anh/chị Bồi kể trên cũng đều là những con người hành nghề lương thiện.

Dù trong xã hội, Bồi có địa vị xem ra không được cao trọng cho lắm (trừ Bồi thẩm đoàn :lick:– vì không phải là một nghề) nhưng chẳng mấy ai dám xúc phạm đến họ.

Ậy mà chẳng biết từ thủa nào, xã hội xuất hiện thêm “nghề” Bồi Bút. Nghề cầm bút là có: nhà văn; nhà biên kịch, nhà báo… chẳng hạn nhưng cái nghề để “phụ” cho các nhà trên thì rõ ràng không hề có. Không có cái nghề thực nhưng lại có “cái” người thực: “hắn chỉ là tên bồi bút”, “bọn bồi bút”… Ta vẫn thường nghe Thiên hạ gọi thế, đúng không nèo :yes:

Và do không có ông/bà/anh/chị Bồi bút mà chỉ có hắn/thằng/bọn/lũ Bồi Bút nên ta đoán ra ngay cái “nghề” này không được cao quý, không được xem trọng mà ngược lại là miệt thị khinh bỉ.

Quán văn chương đầu tuần xin giới thiệu món mới, mời quý khách thưởng thức “chân dung bồi bút”



Đại bồi bút (http://www.vnexpress.net/GL/Cuoi/Tieu-pham/2003/06/3B9C8F57/)
Phàm cái gì cũng phải có công thức thì mới được việc. Giả tỉ như phải đem con cá muối, phơi nắng cho sình lên, ủ một thời gian cho thịt nó chín rồi mới nấu lên và lược ra thành nước mắm. Tôi cầm bút chuyên viết về đề tài giật gân, thỉnh thoảng được lệnh đánh anh này anh nọ, chửi chúng là bồi bút, nên càng phải tôn trọng công thức. Có thế mới kiếm được tiền, xây được nhà, tậu được xế.

Cho nên, tôi trở thành người nổi tiếng. Mấy bà bán chè bán xôi, mấy em bán hoa bán sắc, mấy anh xích lô ba gác... ai ai cũng nhắc tới tôi như một người cầm bút lành nghề.
- Úi chà, thằng cha Nhanh Như Máy này viết đã quá. Bài của hắn đọc nghe rợn cả da gà. Cuối cùng rồi xác con bé cũng được tìm ra, đầu ở trên Giồng Ông Tố mà hai chân lại ở bên Đồng Ông Cộ. Ha ha... hắn lại tả rõ là 10 móng chân con nhỏ sơn màu tím nữa. Trước những bằng cớ xác thật đó, hung thủ đã cúi đầu nhận tội giết cô gái sắc nước hương trời Lý Thị Bí. Hắn khóc nhưng những giọt nước mắt muộn màng không thể xóa đi hành vi dã man. Kết luận hay quá!

Mà không phải chỉ mấy vị trên mới mê tôi. Có một người mê tôi hơn nữa, đó là thằng cha lái sách. Hắn đến thăm tôi khi tôi viết xong phóng sự Đứa con của nàng trinh nữ, ứng trước 10 triệu và đề nghị tôi viết tiểu thuyết.
- Xin ông nhớ cho điều này: phải pha chế một chút võ hiệp Đài Loan vào truyện hình sự. Phải kết hợp nhuần nhuyễn cổ điển và hiện đại, thương mại với văn chương, yêu đương và tình dục, dùi đục và mắm nêm. Ông hiểu ý tôi chứ?
- Hiểu. Tôi vốn là người thông minh nhất thành phố.

Đêm ấy, tôi lên một cái sườn. Sườn như vầy: Cô A 18 tuổi, nhan sắc kiện tướng công huân, yêu thương giám đốc B 60 tuổi, làm ăn dở như hạch. Qua B, A làm quen được với C, thương gia giàu sụ, mạnh khỏe như cô gái Hà Lan (?). A và C giở trò ong bướm; B thâu video được và có nhã ý bán bản quyền cho C lấy 1 triệu đôla, nếu không sẽ phổ biến rộng rãi... C lập kế giết B rồi vu cáo cho A. A đã mang thai, không biết với ai, ra đầu thú trước pháp luật, khai toét toèn toẹt những âm mưu của C. Qua đường dây của mụ D, C tìm cách trốn ra nước ngoài...

Bộ tiểu thuyết có tên là Tiền và máu, có thể dài 8 tập, mỗi tập 500 trang, nhưng cũng có thể ngắn hơn chút đỉnh tùy theo sự chỉ lối đưa đường của tay lái sách. Mỗi ngày tôi viết 15 trang trên máy vi tính, mỗi trang 600 chữ, văn chương cực kỳ bóng lộn. Mời bạn đọc một đoạn: "Thương gia C tiến sát vào giám đốc B hơn nữa. Nhanh như chớp, B cầm cái gạt tàn thuốc ném ngay vào huyệt Thái dương của C. C cúi đầu xuống theo thế Kim tước điểm đầu đồng thời rút cây súng Mauser hãm thanh ra, nã vào huyệt Đản trung trước ngực B hai phát...".

Một đoạn khác: "Từ phòng tắm bước ra, A không mặc một mảnh vải nào. C quỳ xuống trước mặt nàng:
- Nương tử ôi, nàng mới từ châu Phi qua chăng?
- Không đâu. Tiểu muội đến để tặng cho chàng cái ngàn vàng hiển hách, cái tuyết sạch giá trong, cái trắng boong thế sự...
Họ có biết đâu chiếc camera tự động đã thu hết những hình ảnh đó..."
Việc đời sẽ không có gì đáng nói nếu vợ tôi không tình cờ phát hiện ra xấp bản thảo dầy cồm cộm trong hộc tủ. Nàng nói với tôi:
- Em xin lỗi, nhưng phải nói rõ cho anh biết: văn chương anh ngày càng dơ bẩn, ngày càng tào lao.
- Ê, đừng có nói bậy! Tôi là người chuyên phê phán bọn bồi bút...
- Anh còn bồi bút hơn họ. Anh là đại bồi bút, hết đánh lộn, giật gân, giờ pha kiếm hiệp và tình dục.
- Nhưng mà có tiền...
- Tiền cũng năm bảy cách. Anh coi nhà thầy giáo Tám đó. Ổng ra đường, ai cũng gật đầu chào, còn anh ai đọc tới cũng muốn chửi.
Giáo Tám là thằng cha mà tôi ghét cay ghét đắng. Nghe nói hắn chế được một cái máy cân lương tâm, trong xóm ai cũng xúm đến cân nhưng tôi thì cóc thèm.
- Giáo Tám? Hắn làm sao ngon bằng tôi?
- Thì anh qua nhà ổng cân thử là biết ngay.
Câu nói ấy đã làm tôi liều mạng bước sang nhà giáo Tám. Trong xóm có thằng con bà Hai Mập vừa ở tù về bước lên cân trước. Hắn nặng 52 ký, lương tâm được 67 kg. Đến phiên tôi bước lên. Sức nặng cơ thể 62 ký, còn lương tâm thì vẫn chỉ ở con số 0.




Kiếm ăn tối thượng
hạ… văn chương
Gã công nhận mình là một tay bồi bút, bồi bút có thương hiệu. Đời này mà có kẻ dũng cảm đến thế kia ư? Đóng vai một “đại gia“ (phải “đại gia“ gã mới tiếp), tôi tò mò tìm đến nhà gã. Một ngôi nhà khang trang có tới bốn năm con bẹc-giê canh cổng. Trên tường đầy những dấu môi. Nở một nụ cười tiếp thị (những gã bồi bút thường có sẵn nụ cười như thế). Gã mở cổng đón tôi vào nhà.
Đó là một tay đàn ông đứng tuổi nom đỏ đớn, béo tốt và lùn tịt. Tôi thầm đoán gã phải “lục đoản“ trở lên, không phải chỉ “ngũ đoản“ mà thôi đâu. Mặt gã xấu nhưng linh lợi, đặc biệt là những chiếc răng. Những chiếc răng cái ngà ngà, cái vàng xỉn như răng chó nhưng chúng linh lợi đến nỗi không chịu đứng thẳng hàng. Quơ tay một vòng, gã bảo:
-Cơ ngơi này, nhờ viết lách mà có cả đấy. Trông “oách“ không?
-Oách! Thế còn những dấu môi trên tường?
-À! Tại thiên hạ đến nhổ đấy. Nhà tôi biến thành cái ống nhổ từ lâu rồi. Họ nhổ hăng quá, nhổ hết sạch cả nước bọt trong mồm rồi mà vẫn chưa hả, đến nỗi phải trịn cả môi vào tường…
-Ông không thấy kinh sao?
-Có gì mà kinh. Người biết kinh thì không thể làm bồi bút. Bề ngoài không quan trọng. Ông vào nhà đi rồi sẽ thấy. Cái bên trong mới là cốt yếu.
-Ông lập danh bồi bút từ khi nào?
-Từ khi tôi hiểu ra hai chữ: “kế thừa“.
-Hiểu như thế nào?
-Hồi trẻ, cánh kẻ sĩ chúng tôi hăng hái lắm, hoạt động, phấn đấu không biết mệt. Tạo nên cả một thời văn ca, nhạc hót… tưng bừng. Vì thế lúc nào cũng được lãnh đạo xoa đầu khen: “Tốt lắm! các cậu xứng đáng là những người kế thừa…“.
-Rồi sau đó thế nào?
-Sau đó cứ tiếp tục nghe cái điệp khúc “kế thừa“, “kế thừa“. .. ấy mãi. Cho đến khi khi tóc bắt đầu bạc…
-Tóc bạc thì làm sao
-Đến khi tóc bắt đầu bạc, tôi mới tỉnh ngộ. Thì ra “kế thừa“ có nghĩa là…
-Nghĩa là gì?
-Là cái “kế“ không bao giờ dùng đến.
-Điều ấy thì liên quan gì đến chuyện bồi bút?
-Mất toi cả tuổi trẻ, mới nhận ra mình chẳng qua chỉ là cái kế… “thừa“, nên mới phải đổi danh. Bây giờ thì rõ là bồi bút đấy. Nhưng đã nhằm nhò gì. Người ta còn… điếm thì sao? Không thế lấy gì mà đút vào mồm? Vợ con treo mõm lên à? Ngẫm cho kĩ, cũng là do cái “mả“ nó thế. Ông nội tôi ngày trước bồi giấy. Bố tôi bồi bàn… Nhà tôi thế là tam đại “bồi“ rồi đấy. Không biết đến đời con có còn “bồi“ tiếp được chăng?
-Có lúc nào ông thấy nhục không?
-Có gì mà nhục. Người biết nhục thì càng không thể làm bồi bút. Ông nhìn tôi đây này, mặt đỏ không phải do xấu hổ đâu nhé. Chùi nhiều nó đỏ lên đấy ông ạ. Vả lại thiên hạ thiếu cha gì những cái “kế“ cũng bị “thừa“ như tôi. Ấy vậy mà vẫn còn may hơn bị coi là “kế tục“ đấy.
-Kế tục thì làm sao?
-Thì là cái “kế“. .. “tục“ chứ còn sao nữa. Tục lắm chỉ tổ dân họ chửi vụng cho. Vô phúc mà còn bị bêu riếu trong sử sách thì nhục đến muôn đời… Nhưng thôi, trước khi chuyển đề tài khác, ông chờ tôi tí nhé, đến giờ phải uống rồi.
Gã đi đến bên tường. Bấy giờ tôi mới để ý, trong nhà gã, xung quanh tường có rất nhiều đoạn ống thò ra, đầu mỗi ống đều được gắn một cái vòi. Không phải vòi nước. Thế là cái vòi gì? Tôi chưa kịp hỏi thì đã thấy gã ngậm vào một cái vòi như thế. Người bình thường phải cúi xuống mới ngậm được. Nhưng gã thì chỉ hơi ngửa cổ lên là cái vòi vừa đúng chỗ cửa miệng.
Mút một hồi, gã liếm mép, khà! một tiếng rồi quay lại chỗ tôi:
-Rượu Tây đấy, ngon quá. Đúng “rô–lơ–uếch–cơ“ thứ thiệt.
Thì ra là một cái vòi rượu gắn sẵn trên tường. Thật là một kiểu ăn chơi chưa từng thấy bao giờ. Gã tiếp tục:
-Tôi lập danh bồi bút cũng là một cách tương kế tựu kế. Lãnh đạo đã sẵn coi mình là “thừa“ từ hồi còn trẻ. Nay mình không chịu “thừa“ thì đã sao. Thế mà có thằng nó chửi tôi là góp phần làm hỏng đồng bào đấy ông ạ.
-Hỏng là hỏng thế nào?
-Là nham nhở cái phần làm người. Nhưng nếu có hỏng, thì cũng hỏng từ lâu rồi. Chứ có đợi đến lượt tôi làm hỏng đâu. Chính tôi còn hỏng gấp mấy lần ấy chứ. Lại có thằng nó chửi tôi là góp phần làm ngu đồng bào đấy ông ạ.
-Ngu là ngu làm sao?
-Là mờ mịt trước đạo lý. Nhưng nếu có ngu, thì cũng ngu từ lâu rồi. Chứ có đợi đến lượt tôi làm ngu đâu. Chính tôi còn ngu gấp mấy lần ấy chứ. Lại có thằng khác, nó chửi tôi là góp phần làm câm đồng bào đấy ông ạ.
-Câm là câm thế nào?
-Là lặng thinh trước sự thật. Nhưng nếu có câm, thì cũng câm từ lâu rồi. Chứ có đợi đến lượt tôi làm câm đâu. Chính tôi còn câm gấp mấy lần ấy chứ. Lại có thằng khác nữa, nó chửi tôi là góp phần làm điếc đồng bào đấy ông ạ.
-Điếc là điếc làm sao?
-Là tảng lờ trước bất công. Nhưng nếu có điếc, thì cũng điếc từ lâu rồi. Chứ có đợi đến lượt tôi làm điếc đâu. Chính tôi còn điếc gấp mấy lần ấy chứ. Cũng có thằng nó chửi tôi là góp phần làm hèn đồng bào đấy ông ạ.
-Hèn là hèn thế nào?
-Là rụt cổ trước bạo lực. Nhưng nếu có hèn, thì cũng hèn từ lâu rồi. Chứ có đợi đến lượt tôi làm hèn đâu. Chính tôi còn hèn gấp mấy lần ấy chứ. Chúng nó còn chửi nhiều lắm… Nhưng thôi, đến giờ tôi phải nạp dinh dưỡng rồi, ông chờ tôi tí nhé.
Gã lại đến ngậm vào một cái vòi khác. Sau một hồi mút mút, gã liếm mép rồi quay lại bảo:
-Sữa “Cô gái Nhà quê“ đấy. Vừa thơm ngon, vừa béo ngậy, mặc dù: “sữa mẹ là tốt nhất cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ…“.
Thì ra cái vòi thứ hai ấy là một vòi sữa cũng gắn sẵn trên tường. Không biết những vòi khác chứa cái gì vậy? Vừa lúc đó có tiếng chuông điện thoại. Gã vồ lấy cái tổ hợp, tiện tay nhấn nút khuếch đại cho tôi cùng nghe. Giọng đầu dây bên kia như người ngạt mũi:
-“H…“. đấy phải không?
-Dạ! Dạ! Em “H…“ đây ạ.
Gã chưa biết đầu dây kia là ai, mà đã dạ dạ sẵn (những gã bồi bút cũng thường hay dạ sẵn như vậy).
-Tớ là “X…“. đây. Chắc cậu biết rồi đấy. Gần đây, có một số tờ báo “nó“ chửi tớ. Chửi tớ tức là chửi lãnh đạo. Chửi lãnh đạo tức là chửi… tức là… chửi đồng bào. Cậu hiểu không? Phải lên tiếng ngay lập tức…
-Dạ! Dạ! em sẽ bịt mồm chúng nó lại ngay ạ.
-Nhưng phải bịt sao cho có văn vẻ, có dân chủ đàng hoàng. Không dùng cái lối cả vú lấp miệng lỗi thời ngày trước… nghe chưa?
-Dạ! Dạ! Cái đó thì anh cứ tin tưởng ở em ạ. Em đã được học bao nhiêu kinh điển, đã từng đọc bao nhiêu sách… nên em mà bịt thì bao giờ cũng rất có văn. Văn em còn hay hơn khối anh tiến sĩ thời nay đấy. Tiến sĩ tiến xiếc gì mà mỗi khi lên ti vi tán văn chương, nghe cứ như những con vẹt được mớm sẵn lời…
-Thôi được rồi. Cậu không cần phải tranh thủ quảng cáo. Cứ thế mà viết ngay đi…
Gác máy điện thoại xuống, gã quay lại phía tôi, xoa hai tay vào nhau, ra vẻ hớn hở:
-Chuyến này lại gắn thêm được một cái vòi nữa lên tường rồi. Ông đã biết chưa? Không dũng cảm nhận thẳng mình là thằng bồi bút, thì làm sao có người đặt hàng. Đó chính là một cách quảng cáo thương hiệu của “kẻ sĩ“ thời nay đấy. Thế mới gọi là: “người khôn vác… trôn đi trước“. Khối anh nhà văn, nhà thơ bây giờ, có mỗi cái mặt đạo đức giả, lại cứ tưởng đẹp lắm, lúc nào cũng đòi trưng ra, chỉ tổ cho người ta khinh, vừa dùng vừa khinh. Văn chương thị trường, định hướng… mà.
Tất nhiên là tôi đã biết, biết gần hết. Chỉ có chưa biết những cái ống ấy được gắn vào đâu ở đầu phía bên kia, mà mút ra toàn rượu Tây với sữa… như thế? Sau lần ấy, tôi bỏ hàng tháng trời tìm kiếm, lần mò. Những cái ống vươn từ nhà gã ra chạy ngoằn ngoèo khắp các ngả. Cuối cùng, tôi cũng tìm được cái đầu bên kia của chúng. Thì ra, chúng đều được gắn vào… bồn cầu của nhà mấy ông lớn!
9/2005
Phạm Lưu Vũ

TNDH
16-07-2008, 11:00
BÚT TRE

MỘT DÒNG THƠ ĐƯỢC ƯA THÍCH

Họa sỹ Ngô Quang Nam

Nói đến thơ Bút Tre, trong dân gian hầu như ai cũng biết, cũng thuộc, thậm chí có người còn làm thơ hay hơn cả Bút Tre thật. Nhưng khi ông còn sống, đã có nhiều ý kiến, bài viết phê bình về những câu thơ “quái quỉ”, “tự nhiên chủ nghĩa”của ông và cũng từ đấy bao nhiêu câu thơ buồn cười người ta đều gán cho ông - vè sĩ Bút Tre.
Bút Tre là ai?


Chúng tôi về xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê (tỉnh Phú Thọ) - quê hương của vè sĩ Bút Tre. Hỏi thăm đường đến nhà ông Đặng Văn Đăng, người dân ở xã đều lắc đầu quầy quậy: “Ở đây không có ai tên Đặng Văn Đăng cả”. Hóa ra trên quê hương ông, ít ai biết tên thật của ông.

“Tớ chỉ là vè sĩ”
Theo anh Đặng Thành Phiến, con trai của vè sĩ Đặng Văn Đăng - tên thật của nhà thơ Bút Tre, trước Cách mạng Tháng Tám 1945, gia đình anh vốn là gia đình nho học. Thân sinh của ông Đặng Văn Đăng là người hay chữ trong làng, tuy nhà nghèo nhưng ông bà cố gắng tằn tiện nuôi ông Đăng ăn học đến bậc tú tài.

Trước năm 1945, Đặng Văn Đăng làm nghề dạy học và viết báo, ông đã từng có truyện dài kỳ đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, báo Đông Pháp ký bút danh Lục Y Lang. Ông rất giỏi Anh văn, Pháp văn, am hiểu triết học, chính trị, kinh tế học và văn thơ. Đặng Văn Đăng đã từng đỗ tú tài Pháp.

Ở làng quê Đồng Lương hồi ấy có anh giáo biết nói tiếng Pháp là uy tín lắm. Thêm nữa, anh còn biết viết báo thì lại càng sang trọng. Thế nhưng, theo các cụ già trong làng còn sống kể lại, anh Đăng rất xuề xòa trong cách ăn mặc, nói năng. Khi trưởng thành, Đặng Văn Đăng lấy vợ là một cô gái kém nhan sắc nhất làng.

Sau ngày giành chính quyền 19-8-1945, Đặng Văn Đăng thôi dạy học và chuyển sang làm thư ký UBND cách mạng lâm thời xã Đồng Lương. Tháng 9-1946, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản VN và thoát ly công tác, đi làm báo Khu giải phóng (khu 10) rồi là cán bộ ban tuyên huấn khu 10, sau đó chuyển về làm cán bộ ban tuyên huấn Tỉnh ủy Phú Thọ.

Ông Trần Ngọc Liu - 85 tuổi, nguyên trưởng Ty Thông tin Phú Thọ, hiện cư trú tại số 2 Láng Thượng, quận Ba Đình (Hà Nội) - cho hay thoạt đầu khi ông Đăng hay ứng khẩu thành thơ biến âm, mọi người nghe ông nói rồi cũng quên chứ không ai nhớ được, nghĩ đến ông Đăng họ buồn cười vì duyên ăn nói mà thôi. Mãi đến năm 1962, về làm trưởng Ty Thông tin Phú Thọ, ông mới chính thức sáng tác những bài thơ kiểu ngồ ngộ và ký tên Bút Tre, và từ đấy thơ Bút Tre mới được nhiều người biết đến và nhân rộng.

Ông Vũ Kim Biên - người biên soạn cuốn Địa chí xã Đồng Lương, có thời gian sống khá lâu bên vè sĩ Bút Tre để cùng sưu tầm tư liệu viết cuốn sách này - cho hay bút danh Bút Tre bắt đầu được nhiều người biết đến năm 1963 với các tác phẩm Phú Thọ quê ta, Rừng cọ đồi chè.

Tuy nhiên, người ta biết nhiều về ông không phải qua những tập thơ ông được xuất bản mà qua những bài thơ ứng khẩu kiểu “tự nhiên chủ nghĩa”. Do ông hay nói thẳng nói thật nên ngôn ngữ ông dùng ít chất tinh tế, quên cả luật thơ, thậm chí cả về ngữ pháp, tự tiện chia đôi các từ phức. Người ta mến tặng và gọi ông là nhà thơ, những lúc như vậy ông bao giờ cũng khiêm tốn: “Tôi chỉ là vè sĩ mà thôi!”.


“Nhà xuất bản miệng”
Các văn nghệ sĩ Phú Thọ hôm nay như nhà văn Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Hữu Nhàn, họa sĩ Ngô Quang Nam... đều thừa nhận Bút Tre - Đặng Văn Đăng là một trong những người đi tiên phong làm cho đời sống văn hóa văn nghệ Phú Thọ phong phú và nổi tiếng đến hôm nay.
Mới năm đầu nhậm chức trưởng Ty Văn hóa, ông Đặng Văn Đăng đã cho “tinh giản” nhiều vị trong ban lãnh đạo các đơn vị văn hóa như chiếu bóng, phát hành sách của Ty Thông tin. Theo ông Nguyễn Kính Mời, nguyên phó giám đốc Sở VH-TT Phú Thọ thập niên 1980: “Ông Đăng rút lại còn rất ít cán bộ làm việc ở ty, đưa xuống hết cơ sở. Ông hô hào, động viên chúng tôi bám cơ sở mạnh vào, cứ viết thoải mái đi, phải thật gần dân mới viết được hay chứ cứ loanh quanh ở tỉnh thì làm hay sao được!”. Hầu hết các phòng ban của ty đều không có phó trưởng phòng. Ông bảo: “Cứ lấy công việc là trên hết, cứ gì phải là ông nọ bà kia mới làm nên chuyện!”.

Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, thường trực Hội Văn nghệ dân gian Phú Thọ, kể: “Các ấn phẩm của Ty Văn hóa hồi ấy như trăm hoa đua nở, các văn nghệ sĩ Phú Thọ, các cộng tác viên thỏa sức vung bút”. Anh em vung bút, trưởng ty cũng không kém, chỉ ba năm đầu sau khi nhậm chức ông Đặng Văn Đăng cho ra ba tập thơ Phú Thọ lớn lên, Rừng cọ đồi chè, Sông Lô, sông Chảy ký tên Bút Tre, đấy là chưa kể ông còn đi “xuất bản miệng” bao nhiêu lần những bài thơ ứng khẩu.

Ông Nguyễn Kính Mời cho biết chính vì viết lách thoải mái như vậy nên các cộng tác viên khắp hai tỉnh trung du Vĩnh Phúc, Phú Thọ lúc bấy giờ đua nhau viết cho tờ Văn Nghệ Phú Thọ. Ông Đăng đưa ra tiêu chí “hay thì dùng” nên sự cạnh tranh giữa các tác giả, tác phẩm rất quyết liệt, các cộng tác viên như nhà thơ Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi... lúc ấy làm giáo viên dạy học ở Vĩnh Phúc đã là cộng tác viên “ruột” cho tờ báo này. Tờ báo rất có uy tín vì ngoài việc biểu dương người tốt việc tốt, đăng những bài thơ, truyện ngắn, kịch... còn hăng say đả phá tiêu cực, chính vì điều này mà ông Đăng không được một số lãnh đạo tỉnh thiện cảm.


Họa sĩ Ngô Quang Nam kể rằng ngày ấy có lần Đoàn ca múa nhạc Phú Thọ cần một cây đàn piano để biểu diễn. Trưởng ty Bút Tre làm công văn đề nghị UBND tỉnh cấp ngân sách mua đàn. Dạo ấy, tỉnh đang có phong trào đưa cây sắn lên đồi để phủ xanh đồi núi trọc, vị lãnh đạo tỉnh phụ trách văn xã lúc ấy xem công văn, có nói với ông Đăng: “Các anh vẽ chuyện, đất Phú Thọ này chỉ có sắn, cần tập trung vào sắn!”.

Bẵng đi một thời gian sau, chuyện đề nghị mua đàn cũng đi vào lãng quên. Bỗng một hôm, có vị lãnh đạo trung ương lên thăm Phú Thọ, Văn phòng Tỉnh ủy yêu cầu Ty Văn hóa phải mang đàn piano sang nhà khách để phục vụ. Nhân viên Văn phòng Tỉnh ủy cầm công văn sang đưa cho ông Đăng, vè sĩ cười rồi bảo anh nhân viên cầm công văn về vì Ty Văn hóa “chỉ có sắn chứ không có piano”! Anh nhân viên nghiêm sắc mặt nói rằng đây là yêu cầu của Tỉnh ủy chứ không phải chuyện đùa. Vè sĩ cũng nghiêm sắc mặt nói lại: “Tôi cũng không đùa, anh về nói lại với các anh lãnh đạo bên ấy rằng “văn hóa chỉ có sắn thôi”!

Họa sĩ Ngô Quang Nam kể có lần nhà báo Phan Lự (Phú Thọ), lúc ấy là bí thư chi đoàn thanh niên lao động của Ty Thông tin, đến gặp trưởng ty Bút Tre - Đặng Văn Đăng báo cáo công tác Đoàn. Trong khi anh báo cáo thì thấy trưởng ty cứ cắm cúi viết trên bàn. Thấy ông Đăng có vẻ bận rộn, Phan Lự xin phép rút lui thì thấy ông Đăng bảo: “Cậu đọc Tam Quốc chưa?”. “Dạ, Tam Quốc thì có liên quan gì đến công việc của em?”. “Cậu không thấy trong đó có nhân vật Phượng Sồ à, ông ta miệng xử kiện, tai nghe trình bày, tay phê đơn, mắt đọc sách, làm bốn việc một lúc, tớ lại không làm nổi hai việc một lúc sao. Để tớ nói lại cho cậu những điều mới nghe cậu báo cáo nhé!”. Ông Đăng nói vanh vách một hồi những điều Phan Lự vừa trình bày, làm Phan Lự phục lăn.


Di chúc của Bút Tre
Tôi dặn, tiễn tôi tới suối vàng
Thưa kèn, giảm trống, chẳng đò ngàng
Dứt đường Tây Trúc, kinh thôi tụng
Buông sách Thọ Mai, lễ chẳng màng
Xã hội, cơ quan ngừng phúng viếng
Họ hàng thân thuộc chút khăn tang
Hương thơm, đèn sáng, vòng hoa trắng
Trầm mặc, cử hành đám lễ tang

Bút Tre gặp nạn


“Tôi nhớ đó là năm 1967 hay 1968, trên báo Văn Nghệ có bài phê phán Bút Tre do ông Xích Điểu viết trong mục Dọn vườn” - nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn nhớ lại. Một số văn nghệ sĩ ở Phú Thọ và Hà Nội bắt đầu mở “chiến dịch” công kích Bút Tre - Đặng Văn Đăng. Thơ Bút Tre được xuất bản bị mang ra mổ xẻ.

Tại một hội nghị về văn hóa được tổ chức ở Phú Thọ lúc bấy giờ, có vị lãnh đạo ở trung ương phát biểu rằng thơ Bút Tre lủng củng, ngô nghê, tục tĩu... cần phải được chấn chỉnh. Vè sĩ Bút Tre ngồi ở dưới không tỏ thái độ, lặng im suốt buổi họp. Có ý kiến cho rằng vè sĩ làm trưởng ty văn hóa đã tự ý cho in những tập thơ do mình sáng tác, chứ những tập thơ như thế mà ở Hà Nội đã bị “bóp” từ lâu rồi!

Thêm nữa, những câu thơ ứng khẩu của vè sĩ sau khi bị dân gian “nhại đi” đã biến đổi không ngờ. Họa sĩ Ngô Quang Nam kể một dịp vè sĩ tập hợp tự vệ Ty Văn hóa để động viên tinh thần chiến đấu, ông có ứng khẩu: “Giặc Mỹ leo thang đến Phú Tho (Phú Thọ)/ Napan đốt cháy cả rừng co (cọ)/ Sẵn sàng chiến đấu chị em bắn/ Rớt trước ty mình một dù đo (dù đỏ)”. Nhưng khi truyền khẩu thì lại là “Chị em du kích tài thay/ Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa mình”!

Thế nên mới có chuyện một nhà thơ nổi tiếng ở Hà Nội lên chơi, sau khi làm việc với lãnh đạo tỉnh liền cho mời vè sĩ Bút Tre sang đàm đạo thơ phú. Sau khi nghe Bút Tre đọc thơ, nhà thơ Hà Nội gật gù: “Anh tập hợp những bài thơ của anh để tôi đem về Hà Nội nhờ anh Xuân Diệu sửa cho”. Vè sĩ trả lời: “Anh Xuân Diệu làm thơ bác học. Tôi làm vè dân gian, Xuân Diệu chữa thế nào được!”.

Ông Nhàn hiện vẫn còn lưu giữ rất nhiều ấn phẩm của Bút Tre được xuất bản. Ông đưa cho tôi xem và thách đố: “Tôi đố cậu tìm được câu thơ nào của Bút Tre nói về sự tục tĩu. Thơ của ông chỉ có cười mà thôi”. Ông Nhàn còn lưu giữ một cuốn sổ tay ghi chép công tác của vè sĩ Bút Tre, trong đó xen kẽ những ghi chép các buổi họp hành được ghi bằng… tiếng Pháp, xen lẫn thơ được viết bằng tiếng Việt, chữ của vè sĩ rất xấu. Đó là những câu thơ mà vè sĩ một thời làm hai việc, ba việc trong cùng một lúc.


“Một Bút Tre thành vạn Bút Tre các làng”
Ở tuổi 56 (1967), Bút Tre vẫn đầy đam mê nhiệt huyết vì sự nghiệp văn hóa, từ Việt Trì (Phú Thọ) ông dẫn đầu đoàn tham quan gồm tám cán bộ đi xe đạp vào tuyến lửa Quảng Bình để thực tế xem trong đó văn hóa phát triển ra sao. Khi trở về Phú Thọ, vè sĩ là người khởi xướng phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, chỉ đạo mỗi làng thành lập một đội văn nghệ xung kích.

Ông Nguyễn Kính Mời - nguyên cán bộ Ty Văn hóa Phú Thọ, sau làm phó giám đốc Sở VH-TT Phú Thọ, hiện đã nghỉ hưu ở phố Thái Hà (Hà Nội) - kể: “Thời gian ấy, Bút Tre hơi buồn nhưng trước mặt mọi người ông vẫn vui vẻ, lạc quan vì tính ông thế!”. Cuộc sống của ông vẫn không bị xáo trộn gì, trưa đến anh em trong cơ quan vẫn cùng ông đùa tếu táo tại nhà ăn của cơ quan.

Bà Bùi Thị Ngà, nguyên thư ký đánh máy chữ cho Bút Tre suốt những năm vè sĩ làm trưởng ty, cho hay những ngày sóng gió ấy Bút Tre vẫn miệt mài chỉ đạo anh em khai quật các di chỉ khảo cổ trên địa bàn tỉnh để khẳng định các nền văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên...

Riêng về viết lách, ông chăm viết nhiều hơn, có bận chuyển sang viết nghiên cứu. Vè sĩ vẫn làm thơ như mọi ngày, có ngày đến ba bài thơ đưa cho bà Ngà đánh máy, có một bài thơ ở thời kỳ sóng gió ấy làm bà Ngà nhớ nhất, trong đó có những câu:

Bút Tre văn nghệ không thừa nhận
Thêm bao bịa đặt cá nhân xuyên (xuyên tạc)
Nỗi oan trái đâu cần ai rửa
Ánh trăng vằng vặc góc trời riêng.

Bút Tre cũng có lần tâm sự với nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, họa sĩ Ngô Quang Nam là những người thân nhất hay cận kề bên ông: “Oan tớ hơn oan Thị Kính!”. Và cũng kể từ những ngày sóng gió ấy, vè sĩ không gửi thơ đi in nữa.

Nhưng khi ấy trong dân gian, thơ kiểu Bút Tre đã được người ta ứng khẩu đọc tràn cung mây. Bữa ăn ở hội nghị nào của Phú Thọ hay bên mâm rượu vui bạn bè, tiễn bộ đội lên đường đánh Mỹ..., mọi người đều ứng khẩu đọc thơ kiểu Bút Tre. Chính vè sĩ cũng ngây người nhiều bận khi người ta gặp ông thường khoe là... thuộc thơ ông, nhưng khổ một nỗi đó không phải do ông ứng khẩu. Những câu như: “Anh đi công tác Pờ Lây/ Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra/ Còn em em vẫn ở nhà/ Cửa (nhà) mình em mở người ra kẻ vào”; “Thi đua ta quyết thi đua/ Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu/ Hàng đầu rồi tiến đi đâu/ Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi”... Vè sĩ cười chảy nước mắt!

Bị oan nhưng Bút Tre tự hào rằng những lối thơ của mình đã được dân gian thừa nhận. Ông cảm hứng viết lời khai từ của tập Tia lửa làng quê:

Trăm năm ở một làng vè
Nghìn câu lục bát mấy đề vè hôm
Khi khuya sáng, lúc hoàng hôn
Bà con kể lại, xóm thôn vọng lời
Bút Tre nối bước những ai
Một dòng thơ, mở đường quai kể vè
Năm năm dân dã lắng nghe
Một Bút Tre thành vạn Bút Tre các làng.

Năm 1968, thêm một bước ngoặt trong đời ông: tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú, ông được cấp trên phân công làm phó Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phú và giữ cương vị này đến năm 1973 thì nghỉ hưu. Theo lời kể lại của anh em văn nghệ sĩ Phú Thọ, Bút Tre vẫn không ngừng viết nhưng không gửi in ở đâu. Ông làm việc một cách lặng lẽ cho đến khi qua đời tại quê nhà vào năm 1987 ở tuổi 76.



Hôm có người làng về nhắn bảo chuẩn bị một xe cải tiến ra bến đò để chở đồ đạc của “quan” Đặng Văn Đăng hồi hương mang từ tỉnh về. Cả nhà tất tả đi mượn hẳn một chiếc cải tiến kéo ra bờ sông chờ đợi. Thuyền cập bến, toàn sách là sách…

Bút Tre dân gian
Chồng người du kích sông Lô
Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần
*
Con đò dịch đít sang ngang
Bên kia có một cái làng thò ra
*
Phụ nữ thường rất hay lười
Riêng em anh thấy là người cần... (cù)
*
Mua mũ bảo hiểm
Nhà máy sản xuất nhiều mu (mũ)
Để đem đi bán các chu (chú) đội đầu
An toàn ta nhắc nhở nhau
Hễ đi xe máy hàng đầu là mu (mũ)

TNDH
17-07-2008, 09:55
VĂN KHÔNG LÀ NGƯỜI
:emlaugh::emlaugh::emlaugh::emlaugh::emlaugh:

Văn là người. Ý tưởng bất hủ đó xuất phát từ bài diễn văn về văn phong của Buffon [1] :
« Chỉ những tác phẩm viết hay mới được lưu truyền hậu thế : lượng kiến thức, những sự kiện độc đáo và ngay cả những phát minh mới lạ đều không đảm bảo chắc chắn sự vĩnh cửu : nếu những tác phẩm lưu chứa chúng chỉ bàn chuyện nhỏ nhen, bị trình bày thiếu nhã nhặn, thanh cao, thiên tài, chúng sẽ tiêu vong, bởi vì kiến thức, sự kiện và phát minh đều có thể bị rút đi, chuyển đi nơi khác và có khi nên được những bàn tay khéo léo hơn sử dụng. Tất cả những thứ ấy ở ngoài con người, [trong khi đó] văn phong [của một con người] là chính nó.[2] »

Qua thời gian, câu « le style est l’homme même » biến thành : Le style, c’est l’homme. Quả thực, dưới hình thái ấy, câu văn cô đọng, quyết liệt, bao quát hơn. Có style hơn ! Nó đáng lưu truyền hậu thế, trở thành phổ cập. Nhưng không ai biết văn phong ấy là người nào ! Ngày nay ý tưởng ấy đã trở thành một sự thật phổ biến, một ý-chung[3]. Ý-chung ấy đã ám ảnh không biết bao nhiêu thế hệ nhà văn, nhà phê bình hay lý luận văn chương, văn học.


Trong tiếng Việt, hầu như ta không thể bàn về vẻ đẹp của một tác phẩm mà không luôn miệng : văn phong của Flaubert, chẳng hạn. Với ý ngầm sau : đây là lối viết đặc thù của Flaubert, không ai khác viết được, nó thể hiện chính Flaubert. Văn là người. Thực không ? Làm gì có văn phong của Flaubert ! Làm sao có được ? Nếu có, nó ở đâu ? Chính Flaubert đã nói : ông đã say sưa khoan khoái viết hết mình khi ông thảo quyển La tentation de Saint Antoine[4]. Quyển ấy bị... chê. Ngược lại, cũng do ông tiết lộ, quyển Madame Bovary đã khiến tinh thần ông căng thẳng gấp bốn lần khi ông viết La tentation de Saint Antoine. Ông đã phải vận dụng đủ thứ kỹ thuật, kiến thức, lý luận, những phần ít hồn nhiên nhất của nhà văn để xây dựng tiểu thuyết ấy.Thiên hạ thấy nó trác tuyệt. Vậy, văn phong của Flaubert là văn phong nào ? Có lẽ ai cũng nghĩ tới Madame Bovary. Nếu thế, văn phong trong La tentation de Saint Antoine là văn phong của ai, không lẽ không phải của Flaubert ? Flaubert đã đăng nhiều tác phẩm khác, hay có, dở có, không tác phẩm nào như Madame Bovary cả. Văn phong của Flaubert là một huyền thoại, một chuyện hão.

Ở Pháp, thế kỷ 20, đã xảy ra chuyện hi hữu sau. Goncourt, giải văn chương số một ở Pháp biểu dương một nhà văn mới, chỉ ban cho mỗi nhà văn được giải một lần thôi. Thế mà có người lĩnh hai lần. Đó là Romain Gary, nhà văn nổi tiếng khắp thế giới. Một hôm, ông quyết định đăng tiểu thuyết dưới bút hiệu Émil Ajar. Ông lại đoạt giải Goncourt. Cứ thế cho tới chết, ông đăng liên tục nhiều tiểu thuyết đều thành công. Cả ban giám khảo Goncourt, cả nước Pháp, cả dịch giả độc giả khắp thế giới không ai phát hiện rằng Romain Gary và Émil Ajar là một. Vậy, văn phong của ông là văn phong nào ?

Tác phẩm của Antoine de Saint-Exupéry lại càng cho ta thấy điều ấy rõ nét hơn : không tác phẩm nào có văn phong của Le petit prince[5] cả, dù chỉ hao hao giống thôi. Văn phong Le petit prince... độc nhất vô nhị. Không ai, ngay cả Antoine de Saint-Exupéry, viết lại được.

Với Camus cũng vậy. Văn phong của La Peste[6], La Chute[7], chẳng dính dáng gì với văn phong của L’Étranger[8]. Vậy văn phong của Camus là văn phong nào ?

Chắc ai cũng biết tác phẩm Les Champs magnétiques[9] do Breton và Soupault viết chung năm 1920 để nghiệm sinh điều họ gọi là hành văn tự động, écriture automatique. Một tác phẩm độc đáo đích thực. Văn phong trong đó là văn phong của ai ? Của Breton hay của Soupault ? Của cả hai ? Nếu thế, văn phong không thể là người : ngoài những quái thai, trên đời này làm gì có nhà văn hai đầu, bốn tay, bốn đùi ? Cả Breton lẫn Soupault, không ai nhận là văn phong của mình cả. Chỉ là ngôn ngữ tự giải phóng khỏi sự trói buộc của tư duy duy lý để thể hiện thế giới siêu thực.

Đọc tác phẩm của J-P Sartre, còn kinh hoàng hơn. Tuỳ thể loại, tuỳ vấn đề, văn phong hoàn toàn khác : triết, truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận, kịch, bút chiến, v.v. chẳng văn phong nào giống văn phong nào cả. Đọc triết, nhức đầu liền. Đọc truyện ngắn Le mur[10], mê ngay. Đọc Les chemins de la liberté[11], có thể ngáp dài dài. Tiểu luận, kịch, bút chiến, đọc bao nhiêu cũng không chán. Riêng tác phẩm Les Mots[12]mà thiên hạ cho rằng có tính văn chương nhất, người Pháp không biết xếp loại nó, bèn đưa nó vào thể loại mơ hồ nhất trong lý luận văn học của họ : littérature, văn chương ! Đọc đi đọc lại vẫn mê hồn. Vậy, văn phong của Sartre là văn phong nào ? Tác phẩm của Sartre chỉ có một mẫu số chung thôi : triết lý của ông, ai biết, nhận ra liền. Chưa ai phát hiện mâu thuẫn nào giữa triết lý và văn chương của ông. Nhưng nhiều người chia sẻ triết lý ấy, không ai viết như ông cả, ngay khi viết triết, cứ đọc Francis Jeanson trình bày lại triết lý ấy trong quyển Le problème moral et la pensée de Sartre[13] thì thấy. Kenzaburo Oe công nhận mình chịu ảnh hưởng tư tưởng của Sartre. Nhưng ông viết tiểu thuyết rất khác Sartre. Như thế văn của Sartre không thể tìm thấy cả trong hình thức lẫn nội dung của các tác phẩm của Sartre. Nó là gì, ở đâu ?
Câu văn của X có nghĩa trong rất ít trường hợp.

Có lẽ tiêu biểu nhất là trường hợp Isidore Ducasse, nhà văn đã đăng tác phẩm trác tuyệt Les chants de Maldoror dưới bút hiệu Vicomte de Lautréamont, rồi... chết. Nói rằng văn phong trong Les chants de Maldoror là văn phong của Isidore Ducasse thì không ngoa : ngoài tác phẩm ấy, Isidore Ducasse không có tác phẩm văn chương nào khác.

Trường hợp ít tiêu biểu hơn : có nhà văn suốt đời chỉ mài giũa một bút pháp thôi. Có người sáng tác được một hay vài tác phẩm hay. Thí dụ tiêu biểu : Claude Simon, Nobel văn chương, tác giả tiểu thuyết La route des Flandres[14]. Đúng, đọc Claude Simon ta luôn luôn đụng những câu văn tràng giang đại hải kéo dài hàng trang giấy có lúc hàng chục trang liền mà không cần chấm phẩy gì hết. Thường thường ta buồn ngủ, xếp sách lại, vứt lên kệ. Thế mà tôi đọc La route des Flandres một mạch, miên man, không bao giời muốn ngừng, như đọc Cent ans de solitude của Marquez vậy. Trong trường hợp này, nói tới văn phong của Claude Simon thì có lý : ngoài kiểu viết ấy, ông không viết kiểu nào khác. Nhưng kiểu viết ấy chỉ thành văn trong La route des Flandres thôi. Trong những tác phẩm khác, nó không thành văn, nói rằng đó là văn phong của Claude Simon thì tội nghiệp cho ông ấy : độc giả ngáp ! Đối với tôi thôi. Tôi chưa đọc hết tác phẩm của Claude Simon. Sau La route des Flandres, tôi đọc thêm vài quyển, nuốt không trôi nên không đọc nữa. Mình đâu có nhiệm vụ đọc Claude Simon toàn tập. Chỉ có tình này thôi : La route des Flandres cực hay. Vậy, cách nói chính xác nhất, đối với tôi, là : văn phong của La route des Flandres cực hay. Thế thôi. Văn phong của Claude Simon là gì, tôi không biết. Còn văn là người trong nghĩa văn La route des Flandres là Claude Simon, chắc chắn đúng, ngoài ông không ai có thể viết tiểu thuyết ấy. Đúng trong nghĩa nào, ta bàn sau.

Cuối cùng, chắc ai cũng công nhận điều này. Khi ba người đọc cùng một tác phẩm trong cùng thời điểm, cùng hoàn cảnh, trong đầu họ hình thành ba tác phẩm khác nhau ! Ngoài ba tác phẩm ấy, chẳng có gì có thể gọi là tác phẩm cả, chỉ có giấy trắng lem nhem mực thôi. Tác phẩm hình thành xuyên qua quá trình đọc của độc giả. Một người đọc một tác phẩm ở hai thời điểm khác nhau trong đời mình thì cũng hình thành hai tác phẩm khác nhau ! Văn của tác giả là văn của tác phẩm nào ?


Ý tưởng trứ danh của Buffon bao hàm ý này : nội dung anh viết không quan trọng lắm vì ai cũng có thể hiểu được. Khi người ta đã hiểu, ý tưởng đó là của người ta. Nếu người ta có tài văn chương, người ta sẽ biểu hiện nó dưới hình thức đáng lưu truyền hậu thế hơn điều anh viết. Tính văn chương cơ bản ở hình thức : cách viết.

Đúng thế. Bản thân thân phận câu văn của Buffon chứng minh điều ấy. Le style est l’homme même, không ai nhớ cả. Nhưng Le style, c’est l’homme, cả nhân loại nhại đi nhại lại hơn 250 năm rồi. Y như câu Je pense, donc je suis[15] của Descartes hay câu L’enfer, c’est les autres[16] của Sartre. Câu nói cùng hình thức sau cũng đã lưu truyền hậu thế : L’État, c’est moi của vua Louis 14. Phải chăng văn phong đơn thuần nhờ hình thức mà thành ? Không chắc tí nào. Câu L’Esprit, c’est Dieu chẳng hặn. Tuy nó biểu hiện một niềm tin phổ cập trong các nền văn hoá Tây Âu, chẳng ai thèm nhớ. Vì sao ? Vì nội dung xoàng xĩnh !

Tại sao câu văn « của » Buffon được loan truyền, ngưỡng mộ đến thế, khiến hàng mấy thế hệ nhà văn, nhà lý luận văn học trên khắp thế giới lùa chính mình và lùa nhau vào ngõ cụt tư duy ? Vì nó vận dụng một lối suy luận hình thức rất bổ ích trong một số quan hệ giới hạn của con người với thế giới nhưng lại vô cùng nguy hiểm khi ta hồ đồ vận dụng nó vào quan-hệ tổng-hợp giữa người với người xuyên qua ngôn-ngữ chung của họ.

Trong câu Văn phong là người, ta dùng hai khái niêm hình thức không có định nghĩa : văn phong và người. Rồi ta dùng một nguyên lý lôgích hình thức, là, để « đồng nhất » hai khái niệm rỗng tuyếch ấy. Kết quả đương nhiên : một câu nói không có nội dung đích thực, không có nghĩa.


Thế thôi. Nỗi đau của tôi đó, nỗi đau của một thằng trí thức do Tây Âu nhào nặn, đ... có nghĩa, đ... có tình. Tính chất lơ mơ hàm hồ của câu nói lồng vào hình thức cô đọng, mãnh liệt của nó khiến ta bùi tai, nghe rất « siêu » nhưng ai muốn hiểu sao cũng được. Ai thích loại văn chương lơ mơ hàm hồ, thích ra vẻ siêu kiểu ấy ắt mê câu của Buffon do người đời cải biến.

Người đời nhớ câu nói của Buffon cũng không tình cờ. Nó chứa một ý đúng tuy không đầy đủ : bất kể với nội dung nào, tác phẩm đáng lưu truyền hậu thế phải có hình thức hoàn chỉnh.
Nhưng nếu chỉ thế thôi, thành « tác phẩm » chăng ? Không chắc tí nào. « Tác phẩm » không có nội dung đáng lưu truyền, chỉ có văn vẻ kêu kẻng mượt mà... thường không tồn tại quá vài mùa thời trang. Người Pháp hiểu điều ấy từ thế kỷ... 17. Cứ đọc lại Les précieuses ridicules của Molière thì thấy. Tác phẩm loại ấy, đọc thấy hay hay. Đọc xong, quên liền.

Trong thế kỷ 19, người Pháp tổng kết vấn đề như thế này :
« Kiểu cách bắt đầu khi văn phong chấm dứt.
Nó gồm những hình thái, dáng vẻ, kiểu ăn nói, ẩn dụ và, để nói gọn, tất cả những thủ thuật ngôn ngữ dùng để che đậy sự thiếu hụt một ý ban đầu hoặc, đơn giản hơn, khi nó được dùng để thăng hoa một ý-chúng kém cỏi. Đó là điều dị hợm lạ lùng nhưng phổ cập : độc giả thường ngại ý mới. Một kiểu cách mới luôn luôn quyến rũ nó.

Nói chung, sự quyến rũ ấy không lâu bền và hậu thế luôn luôn xác định điều ấy. Nhưng khi nó còn tác dụng, đối với thế hệ chứng kiến sự ra đời của nó, nó có sức quyến rũ bất khả kháng của một thời trang. »[17]

Ý đúng trong câu nói của Buffon sẽ hoàn chỉnh nếu ta thêm vào đó ý này, có trong câu nói ấy nhưng hết sức nhạt mờ, hàm hồ, không cơ bản : muốn có hình thức hoàn chỉnh, không nên dây dưa với chuyện nhỏ nhen. Xin nói rõ ngay : trong văn chương không có đề tài nào tự nó nhỏ nhen, từ khát khao tâm linh tới khát vọng tình dục của con người. Chỉ có ý-tưởng, suy-luận của nhà văn về chúng nhỏ nhen thôi. Văn bạo dâm, loạn dâm của người đời hiện nay thường nhỏ nhen vì tác giả chẳng có điều gì đáng nói ngoài chuyện ngủ nghê. Chỉ đủ mua vui vài giờ rồi quên. Vì thế trong văn chương Pháp suốt thế kỷ 20, chẳng còn mấy tác phẩm loại ấy đáng để đời. Văn bạo dâm của Sade không nhỏ nhen. Ông có nhiều kiến thức, văn hoá. Không những ông hiểu rằng cách mạng tư sản vĩnh viễn khai tử một nền văn minh, khai tử giai cấp quý tộc của ông, nó còn dồn loài người vào ngõ cụt về mặt giá trị. Cứ đọc Français, encore un effort si vous voulez être républicains ![18] của ông thì biết. Văn dâm có nội dung văn hoá, tư tưởng là thế, không phải ai cũng viết được. Không phải tình cờ mà tên ông đã trở thành tính từ trong văn chương, văn học Tây Âu. Chúng ta nên hiểu, không nên bắt chước. Đã bắt chước, toi mạng văn chương.

Tính đặc thù của văn xuôi khiến nó khác hẳn mọi nghệ thuật khác kể cả một số hình thái thơ là nó dùng ngôn-từ làm vật liệu. Ngôn-từ tự nó có nghĩa mà người đời hiểu được qua ý nghĩa thông thường của từ ngữ, ai không hiểu thì mở từ điển ra xem. Đương nhiên, mỗi độc giả hiểu nó ít nhiều tùy kiến thức và nghiệm sinh của chính mình, nhưng dù sao cũng có một cách hiểu tối thiểu gọi là ý-chúng. Thí dụ câu Địa ngục, chính là tha nhân của Sartre, ai cũng có thể hiểu : chính tha nhân khiến đời ta biến thành địa ngục. Vì sao, tuỳ nghiệm sinh của mỗi người. Ai biết triết lý của L’Être et le Néant, có thể hiểu thêm : tha nhân là một bộ phận cấu tạo ra chính ta, nó là kẻ duy nhất có thể mang lại cho ta điều ta thiếu hụt, Thực-Thể (l’Être), để trở thành chính ta mà vẫn là một ý thức hoàn toàn tự do. Khốn nạn thay, cũng như ta, nó tự do. Nó cho ta điều ta thiếu hụt hay không, bao nhiêu lâu, chỉ tuỳ nó. Như tình yêu ấy mà. Ta không thể chiếm hữu tình yêu của người khác, chỉ có thể xin thôi. Nhưng xin toát mồ hôi chưa chắc được cho. Hè hè... Thế nào đi nữa, những nội dung ấy đều có thể trình bày với nhau, có thể hiểu nhau. Trong văn chương, chỉ có điều ấy có thể bàn được. Nó nằm ngay trong văn bản. Tác giả viết kín đáo đến mấy, chịu khó đọc đi đọc lại vẫn tìm được. Ngoài ra, chỉ còn cảm nhận ngôn ngữ bằng bản năng, cảm tính của từng cá nhân. Điều này không có gì bàn được. Nói cho nhau nghe để chia sẻ với nhau thôi : văn mượt mà quá, tôi thích quá, văn mượt mà quá tôi không thích tí nào, thế thôi.

Chữ nghĩa chỉ có nội dung thôi, không thành văn. Trừ mấy ngài lý luận bằng thơ, không ai lẫn lộn « khoa học nhân văn » với văn chương nghệ thuật cả. Chữ nghĩa không có nội dung đáng lưu truyền cũng không thành văn. Không ai lẫn lộn Delly với André Gide. Chữ nghĩa loạn xà ngầu không thể thành văn. Chữ nghĩa chỉ có hình thức bùi tai đẹp mắt kêu kẻng thôi cũng vậy. Để ngôn ngữ thành văn, phải có nội dung đáng nói với người đời và phải có hình thức hoàn chỉnh biểu hiện nó trong một tiếng nói của con người.

Văn là người. Đúng, trong ý giới hạn này : nó đã là một người ở một thời điểm nhất định, trong một quan-hệ nhất định với thế-giới. Thế thôi. Sau đó, nếu nó đạt mức nghệ-thuật, nó không là người đó nữa vì người đó đã trở thành người khác rồi, nó trở thành người đời. Thế mới đáng gọi là văn.

Mỗi lúc, mỗi người đều có nhiều gương mặt khác nhau, tuỳ trong quan-hệ nào với đời, với chính mình. Khi ta hiện-thực những quan-hệ ấy bằng văn-chương, ở cùng thời điểm, ta có thể có nhiều văn-phong khác nhau.

Ở những thời điểm khác nhau trong đời mình, nhà văn có thể có nhiều văn-phong khác nhau, tuỳ quan-hệ nó muốn hiện-thực với người đời, với chính nó trong lĩnh vực nào đó của kiếp người.
Khi nó không còn khao khát ấy, khi nó đánh mất niềm say đắm làm người cùng với tha nhân, nó biến thành thợ chữ, trường hợp phổ biến với không ít nhà văn : nhại lại chính mình, văn chỉ còn xác, mất hồn. Đúng hơn, văn vô tình, rỗng ý, chỉ còn hình thức : nhạt phèo, ai cũng viết được. Có đầy thí dụ.


Tôi từng nghiệm-sinh những điều trên. Xin lỗi bạn đọc. Chẳng gì trơ trẽn hơn là nói về mình, phải không ? Nhưng có lúc phải nói. Chính mình. Nếu mình muốn không chỉ là mình thôi, lại điên cuồng muốn làm mình, cái mình khốn nạn lê lết qua thế kỷ 20. Nếu mình muốn chân tình nói với nhau một chuyện đáng nói.

Vậy, nghiệm-sinh của tôi thế này.
Khi tôi cho đăng tập truyện Un amour métèque[19], Bùi Mộng Hùng tinh mắt nhận định : ba truyện ngắn trong quyển sách ấy tải ba văn phong rất khác nhau. Văn nào là PHĐ ? Cả ba và chẳng cái nào cả. Khá dễ hiểu : chúng thể hiện ba quan-hệ khác nhau của một người với thế-giới ở hai thời điểm khác nhau trong đời mình. Hai truyện Un squelette d’un millard de dollars và Vacance, tôi viết cùng lúc, song song, trong cùng hoàn cảnh : lê lết ngồi café đợi vợ. Nhưng chúng thể hiện hai quan-hệ khác nhau với thế-giới. Trong truyện đầu, quan-hệ của một người với cái thế giới đang toàn cầu hoá dưới dạng thị trường tư bản. Trong truyện sau, quan-hệ của một người di dân với quê hương và tuổi thiếu thời của mình sau một cuộc chiến tranh kéo dài. Truyện Un amour métèque, tôi viết từ hơn... 10 năm trước, nó thể hiện quan-hệ của một người với chính mình trong cơn khủng hoảng. Không thể sử dụng cùng một văn phong. Văn Un amour métèque, tôi viết theo cảm tính. Văn hai truyện kia, tôi hành văn có ý thức.

Tất cả, xưa kia, đều là tôi. Hôm nay, đã là tôi, tôi công nhận. Nhưng không còn là tôi trong nghĩa này : tôi không chỉ là thế, không mãi mãi là thế. Không lẽ tôi không có quyền hành văn, sáng tạo, làm người nữa ? Mọi người đều có quyền ấy, đều thực sự xử dụng nó dưới hình thái này hay hình thái nọ. Tôi cũng vậy. Thế thôi.

Từ nay ta không nên nói « văn của X », chỉ nên nói « văn trong tác phẩm Y ». Nếu thói quen ngôn ngữ trói buộc ta, khiến ta vẫn viết « văn của X », độc giả chỉ nên hiểu « văn của X trong tác phẩm Y » mà ta đang bàn.

Chỉ khi nào nhà văn đã chết, câu văn là người mới có nghĩa và chỉ nghĩa này thôi : tác giả là toàn bộ những gì nó đã viết đã đăng đã nói và... đã làm nữa chứ ! Nó chẳng thể là gì khác hơn vì nó chẳng thể làm gì khác nữa. Địa ngục, chính là tha nhân nghĩa là thế đó. Huis-clos mà. Lúc đó, người đời cảm nhận, hiểu, đánh giá tác phẩm nó để lại đời theo kiến-thức, nghiệm-sinh, lịch-sử chung và cá biệt của chính mình. Năm thì mười hoạ mới có người biết quên mình một tí, âu yếm tìm, đằng sau chữ nghĩa chết, khát khao làm người của một người đã từng « dám sống », đã từng biết hành văn, sự hiện diện ở đời của một con người. Cuộc gặp gỡ này, khi có, không chỉ là kiến thức, tri thức. Không chỉ là lý trí đương thời. Nó là quan-hệ-sống-có-ý-thức của một người với đời, với chính mình xuyên qua quan-hệ ngôn-ngữ của mình với một người đã chết. Mỗi tác phẩm văn chương đích thực đều là một người đã qua, đã vươn qua chính mình, đi vào một cuộc đời khác. Cuộc gặp gỡ ấy là tình, là văn, là nghệ-thuật. Nó là ta trong khát khao làm người với mọi người. Nó là em là anh là... mình, quan-hệ đặc thù nhân tính xuyên qua ngôn-ngữ giữa hai con người, tác giả và độc giả. Vì thế nó có thể « tồn tại » vượt kiếp người.

Văn không là người, nó hiện-thực dưới dạng ngôn-ngữ quan-hệ của một người với thế-giới ở một thời điểm nhất định của đời mình trong một vấn đề và một hoàn cảnh lịch-sử nhất định của loài người. Khi quan-hệ cá nhân ấy có nội dung mới đích thực và đáng tồn tại đối với một nền văn hoá và khi nó được biểu hiện hoàn hảo đến mức người đời cảm nhận : không thể trình bày ý đó, tình đó hay hơn, thì ngôn ngữ biến thành văn, tác phẩm đạt mức nghệ-thuật, đáng lưu truyền hậu thế. Nó có chung với mọi tác phẩm nghệ-thuật đặc tính này : độc nhất vô nhị. Thế thôi.

Ôi, biết đến bao giờ ta mới biết hành văn, mới viết được một tác phẩm nghệ-thuật ? Hè hè...

Phan Huy Đường
12-2005


Chú thích của tác giả:
[1] Georges-Louis Leclerc, comte de BUFFON / Discours sur le style / Paris, J.Lecoffre 1872.
[2] « Les ouvrages bien écrits seront les seuls qui passeront à la postérité : la quantité des connaissances, la singularité des faits, la nouveauté même des découvertes, ne sont pas de sûrs garants de l'immortalité : si les ouvrages qui les contiennent ne roulent que sur de petits objets, s'ils sont écrits sans goût, sans noblesse et sans génie, ils périront, parce que les connaissances, les faits et les découvertes s'enlèvent aisément, se transportent, et gagnent même à être mises en oeuvre par des mains plus habiles. Ces choses sont hors de l'homme, le style est l'homme même. »
Discours prononcé à l'Académie française le 25 août 1753, p.23
[3] Những khái niệm được trình bày một cách bất thường như « thế-giới » thay vì « thế giới » là những khái niệm riêng đã được định nghĩa trong quyển Penser Librement và Tư Duy Tự Do (đang đăng từng kỳ trong web : http://amvc.free.fr)
[4] Điều quyến rũ Thánh Antoine.
[5] Hoàng tử bé con.
[6] Dịch hạch.
[7] Sự sa ngã hay sự đày đọa.
[8] Kẻ xa lạ.
[9] Những từ trường.
[10] Bức tường.
[11] Những nẻo đường tự do.
[12] Ngôn từ.
[13] Vấn đề luân lý và tư tưởng của Sartre.
[14] Con đường dẫn tới vùng Flandre.
[15] Ta tư duy, vậy ta có thực.
[16] Điạ ngục, chính là tha nhân.
[17] SARCEY / Quarante ans de théâtre (1) / Bibliothèque des Annales politiques et littéraires 1900
« La manière commence où le style finit.
Elle se compose des formes, tours, façons de parler, métaphores, et pour tout dire d'un mot, des procédés de langage au moyen desquels on déguise l'absence de l'idée première, à moins qu'ils ne servent simplement à relever l'insuffisance d'un lieu commun. C'est une anomalie étrange, mais bien souvent constatée : le public rechigne souvent à des idées nouvelles. Une manière nouvelle le séduit toujours.
En général, ce charme ne dure pas bien longtemps, et la postérité en fait toujours justice. Mais tant qu'il dure, il a pour la génération qui l'a vu naître, l'attrait irrésistible de la mode. »
<Jules Janin, 29 juin 1874, p.76>
[18] Hỡi người Pháp, hảy cố gắng lên một bước nếu anh muốn trở thành người cộng hoà.
[19] Một mối tình ngụ cư.



Tự kiểm :
Biển học vô bờ.
Người xưa nói thà dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng.
Bao nhiêu năm ăn học mà kiến thức không qua nổi lũy tre làng.
Ngộ chưa ?
Chưa ?
Ngộ ! :huh:

TongNghien
17-07-2008, 23:01
Hic, cau siu quá !


Hỏng hỉu.



Xỉu ! :crying:

TNDH
19-07-2008, 08:18
ĐẲNG CẤP THI CA Lờ Mờ
I. XƯA


Núi thơ Dục Thuý
Nằm nghiêng mình bên ngã ba sông Đáy sông Vân của thành phố Ninh Bình, Dục Thuý không chỉ là “cảnh tiên nơi cõi tục” mà còn là núi thơ với “thơ phú anh hoa đầy vách gấm” làm mê hồn bao du khách.

Đến với núi Dục Thuý là đến với bảo tàng thơ Hán Nôm - một bảo tàng thi ca của tạo hoá rất sống động và phong phú giữa đất trời. Vào đời Trần, Trương Hán Siêu tự là Thăng Phú, hiệu là Đôn Tẩu - người con của đất Ninh Bình đã khởi tạo nên bảo tàng thơ này, khai sinh ra truyền thống khắc thơ vào núi đá. Bài thơ đầu tiên ông khắc vào vách núi có tên là Núi Dục Thuý ngợi ca vẻ đẹp của núi và khát vọng tha thiết muốn trở về với quê hương vì sự quyến rũ của phong cảnh Dục Thúy tươi đẹp:

Sắc núi còn xanh ngắt, Lâu rồi, người vẫn đi
Lòng sông in bóng tháp, Tầng thẳm cửa thôi che
Từ cách xa đời tục, Mới hay điều thị ph
Năm Hồ trời đất rộng, Bến cũ khi nào về?
(Băng Thanh dịch).

Đến triều Lê, vua Thánh Tông khi ở Vĩnh Lăng (Thanh Hoá) trở ra, cũng dừng thuyền lên thăm núi Dục Thuý, cảm thán trước cảnh đẹp của thiên nhiên và những bài thơ trên vách núi, đã làm bài Đề núi Dục Thuý, cho khắc ở phía tây của ngọn núi nhô cao ở phía đông. Vua Tự Đức triều Nguyễn đến thăm núi cũng đề thơ vào vách đá. Có thể nói không một ngọn núi nào trên đất nước ta lại gắn với nhiều triều đại phong kiến Việt Nam như núi Dục Thuý.

Núi Dục Thuý Thơ phú anh hoa đầy vách gấm – thơ của các tao nhân mặc khách khắc hàng nối hàng như: Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Huy Oánh, Bùi Văn Dị, Phạm Bá Huyền... Núi đã mài mòn nét bút của bao hào kiệt. Dục Thuý là núi thơ - một tuyển tập thơ có một không hai ở đất nước ta, chứa đựng những bài thơ có một không hai ở đất nước ta, chứa đựng những bài thơ hay trong bảy thế kỷ qua. Núi được khắc khoảng hơn 40 bài thơ, đó là những bức thông điệp vô giá lưu truyền trường tồn cho các thế hệ mai sau, giữ hộ con người bao điều sáng chói diệu kỳ, đã tô điểm, trang trí thêm cho núi có phần cổ kính, trang nghiêm và trí tuệ hơn. Đó cũng là giá trị văn hoá thể hiện tài năng sáng tạo, kỹ thuật tinh xảo, điêu luyện của các nghệ nhân khắc đá xưa. Bất luận thời gian, trải qua bao độ phong sương, mưa nắng của đất trời, những bài thơ chữ Hán, chữ Nôm, nét chữ to, nét chữ nhỏ, khắc trên vách núi vẫn chưa mờ. Như những tác phẩm điêu khắc tạo hình hoàn chỉnh cho cái đẹp của núi, cuốn hút du khách lòng không muốn rời, chân không muốn bước để say trong cảnh núi sông tuyệt mỹ.

Từ đỉnh núi thấy mây trời tuyệt đẹp và cõi lòng lắng xuống để thả bay trong gió những lo toan của đời thường.

Thu Thơm

II/ NAY



Vụ viết thơ trên vách đá đảo Cát Bà: Có thật "chuyện bé xé ra to"?

Thời gian qua, giới cầm bút ở Hải Phòng cũng như cả nước đã ít nhiều bị thu hút bởi một vụ việc: Ông Phạm Xuân Trường, hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng (và cũng là hội viên Hội Nhà văn VN) trong thời gian đi thăm con hiện đang công tác tại một đơn vị quân đội ở đảo Cát Bà, đã dùng sơn viết thơ của mình và một đôi bài thơ của bạn bè lên vách núi đá khu vực đường từ bãi Cát Cò I sang bãi Cát Cò II (đảo Cát Bà).

Phản ảnh vụ việc này trên một tờ báo, nhà thơ Dư Thị Hoàn - Chi hội trưởng Chi hội Thơ Hải Phòng cho biết: "Chúng tôi ngạc nhiên thấy rất nhiều bài thơ bằng sơn trắng sơn đỏ sơn đen viết rải rác trên vách đá. Chữ viết trung bình to bằng hai bàn tay. Có bài viết nắn nót thẳng hàng, có bài lem nhem chữ chen chúc xiên xẹo, diện tích rộng bằng mảnh chiếu đôi".

Đấy là về mặt hình thức, còn về nội dung thì - vẫn theo nhà thơ Dư Thị Hoàn: "Hỡi ôi, sao lại có loại thơ ẩm ương thế này, bằng con mắt săm soi "nghề ngỗng", chúng tôi cho đó là thơ phường xã của bà con huyện đảo và mỗi lần đọc to lên lại ôm bụng cười phá ra vì các bài thơ đều xuất hiện những câu, những chữ bộc lộ tình yêu hiếm thấy ở tuổi mãn chiều xế bóng".

Ngoài bài viết của nhà thơ Dư Thị Hoàn, vụ việc còn thu hút ý kiến (cả trên báo giấy lẫn báo mạng) của một số cây bút ở Hải Phòng cũng như của chính "người trong cuộc" (như tác giả Thúy Ngoan, người cũng được nhắc tên trong bài viết nói trên).
Nhà văn Đình Kính, thay mặt BCH Hội Nhà văn Hải Phòng, cũng đã ra kết luận: "Đây là việc làm tùy tiện, bột phát thiếu suy nghĩ, đáng trách của nhà thơ Phạm Xuân Trường, ít nhiều cũng để lại suy nghĩ không mấy thiện cảm trong dư luận trên đảo Cát Bà và trong anh chị em văn nghệ sĩ. Tuy vậy, sự ngẫu hứng ấy không có gì đáng để xôn xao dư luận, nếu như những người biết sự việc ấy, trên tinh thần đồng nghiệp, chân tình khuyên bạn xóa đi là êm thấm… Tiếc là đã không có sự bình tĩnh và thân tình như vậy. Có người viết báo và có người đã đưa ý kiến mình lên mạng".

Ông Vũ Tiến Bảy, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện đảo Cát Hải cũng bày tỏ sự nuối tiếc: "Sự việc diễn ra trên địa bàn chúng tôi quản lý, lẽ ra chúng ta giải quyết êm nhẹ là xong, chúng tôi xóa, nếu biết được đích danh người gây ra sự việc, ta rút kinh nghiệm, cứ gì phải ầm ĩ đến vậy". Về phần mình, sau khi đọc được những ý kiến này, nhà thơ Dư Thị Hoàn tiếp tục thể hiện bức xúc của mình trong bài viết "Người đáng chê trách là ai?".
Như vậy, tính tới thời điểm này, sự việc xem ra vẫn "chưa có hồi kết". Và nếu có, thì cũng là gượng gạo, bất đắc dĩ, bởi chắc chắn về phía những người liên quan đến vụ việc, chưa ai thực sự "tâm phục khẩu phục".

Riêng người viết bài này xin được trình bày một đôi ý kiến của mình như sau:
Nếu nói vụ việc không nên làm ầm ĩ, không nên đưa lên báo thì thiết nghĩ, chúng ta còn có cách nhìn xuê xoa, xem nhẹ vấn đề. Ông Phạm Xuân Trường là một nhà thơ, lại là hội viên Hội Nhà văn Trung ương, đáng ra ông không được cho phép mình làm một việc "tùy tiện, bột phát thiếu suy nghĩ" như vậy.

Những cậu bé, cô bé tuổi mới lớn có thể "ngứa tay" viết loằng ngoằng đôi dòng đôi chữ lên bức tường nhà hàng xóm hoặc của khu tập thể, ta còn ít nhiều thông cảm. Đằng này, theo phản ảnh thì ông Phạm Xuân Trường đã chủ động sắm sửa bút, cọ, chuẩn bị tới 3 màu sơn, và không chỉ viết một bài thơ, ông viết cả thảy tới 12 bài, không chỉ viết ở một khu vực mà kéo dài trên một đoạn đường tới cả vài trăm mét, và viết liên tiếp trong các ngày 25, 26 rồi 28 (tháng 5/2008).

Chưa hết, có lúc ông còn múa bút trước sự chứng kiến của các tay máy nước ngoài, như thể một ông đồ đang… cho chữ vậy. Thiết nghĩ, ngay ở một tập thơ mà tác giả phải bỏ tiền ra in, nhiều khi chúng ta còn phải cân nhắc xem nên đưa chữ nào, đưa hình gì ra ngoài bìa, thì việc đưa những bài thơ có nội dung quá đỗi riêng tư phơi trên vách đá công cộng, với tiết diện to bằng cả… chiếc chiếu, đập vào mắt bàn dân thiên hạ là một việc không những phạm luật mà còn chưa thật tinh tế đối với một phẩm cách thi sĩ.

Nhân đây cũng cần nói thêm: Những việc làm tương tự nhà thơ Phạm Xuân Trường, trước nay báo chí cũng từng phản ảnh và có thái độ nghiêm khắc. Trong đợt thi tuyển sinh đại học cách đây một vài năm, báo chí từng nêu hiện tượng có thí sinh đã viết những lời cầu khấn lên cả những đầu rùa trong Văn Miếu và Tháp Bút bên Hồ Gươm. Còn xa hơn nữa, nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã phải làm thơ "mắng mỏ" những anh chàng sính thơ đã viết nhăng nhít lên tường chùa "Muốn sống đem vôi quét trả đền".

Về ý kiến phản ảnh vụ việc của nhà thơ Dư Thị Hoàn, tôi phải công nhận rằng, cũng đã có những chỗ chị Hoàn hơi… quá lời. Việc nào đi việc nấy. Ông Phạm Xuân Trường đã có những việc làm đáng chê trách, chị Hoàn lên tiếng phê phán là đúng. Song việc chị mở đầu bài viết bằng mấy câu thơ:

Tiếng tăm càng lòi cái ngu
Viết thơ tán gái bội thu mười bài
Dụ ả ra tận Bãi hai
Cát Bà đảo ngọc trổ tài bút nghiên
cũng như khi chị cho hay: Phạm Xuân Trường (61 tuổi, mới được kết nạp Hội Nhà văn cuối năm ngoái) và Thúy Ngoan (58 tuổi, mới tặng tôi tập thơ thứ ba tháng trước do PXT vẽ bìa, cũng đang nộp đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam), người đọc cảm thấy có gì đó không được khách quan.

Đặc biệt, khi chị cho đây là một hiện tượng "bội thực" thơ và "thủ dâm" thơ thì rõ ràng, sự việc đã bị chị đẩy đi… xa quá! Giá chị Hoàn chỉ khoanh vùng vào riêng vụ việc này và bớt những lời lẽ có phần cay nghiệt nói trên thì chắc chắn sự góp ý của chị sẽ được mọi người đồng tình hơn.

Cũng từ những lời lẽ thái quá của nhà thơ Dư Thị Hoàn, tôi xin được nói thêm rằng: Bấy lâu nay, đọc những ý kiến tâm sự (hoặc tranh luận) của một số nhà văn, nhà thơ trên các báo, đây đó tôi lại bắt gặp những lời lẽ quá ư nặng nề, khiến người đọc không khỏi có ý nghĩ người được nhắc đến đang là một tên tội đồ nguy hiểm, trong khi thật ra, đó chỉ là sự yếu kém về chuyên môn, hoặc sơ sểnh trong tác nghiệp.

Như có nhà phê bình, sau khi trách cứ một nhà phê bình khác là có cách cảm thụ tác phẩm không đúng, đã gọi việc làm đó là "lập lờ đánh lận con đen". Có nhà văn không nhận tài trợ sáng tác của một Hội Văn nghệ và phát biểu như thể nếu nhận thì đó là việc làm "hại dân hại nước". Có nhà văn gọi một tác giả có cùng một bài thơ in trên hai tờ báo là "lừa đảo".

Trụ sở Hội Nhà văn trước đây ở 65 Nguyễn Du thường tối tối có những ả làm tiền đứng ở gần đó đợi khách, vị bảo vệ cơ quan Hội không ngăn chặn được, và thế là, tại một hội nghị, đã có nữ nhà văn tuổi trên 60 đứng dậy phát biểu, đại để rằng, từ lâu bà không muốn đặt chân đến Hội vì sợ mọi người nhầm mình là… ca ve.
V.v và v.v…

Chính những cách nói gay gắt (và có phần ngoa ngoắt trên), mặc dù là xuất phát từ những con người chính trực, đã ít nhiều khiến công chúng có cách nhìn khác về các nhà văn, nhà thơ, trong khi đúng ra, sự việc cũng không đến nỗi "khủng khiếp" cho lắm…


Phạm Khải

III/ HỐI



http://img133.imageshack.us/img133/8996/14aep7.jpg

Đây là một chuyện hy hữu trong làng thơ khiến dư luận xôn xao. Trả lời PV Thanh Niên, tác giả những vần thơ trên núi đá Cát Bà đã nhận mình nông nổi.

Hơn một tháng qua, dư luận giới viết văn, làm thơ ở Hải Phòng và cả nước xôn xao trước thông tin về việc ông Phạm Xuân Trường, hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng và Hội Nhà văn Việt Nam, hiện sống ở Hải Phòng đã tới khu du lịch Cát Bà và đề hàng chục bài thơ to như cái chiếu lên sườn núi. Sự việc được so sánh với chuyện các bậc tiền nhân đề thơ lên núi đá để truyền cho hậu thế. Có ý kiến ví cách làm này như việc quảng cáo khoan cắt bê tông, dịch vụ vệ sinh trên tường nhà, cột điện.

Theo thông tin chính thức của Hội Nhà văn Hải Phòng, tổ chức cơ sở nơi ông Trường sinh hoạt, thì từ ngày 12 - 28.5 vừa qua, nhà thơ Phạm Xuân Trường khi đi ra Cát Bà thăm con, đã dùng sơn viết 12 bài thơ lên vách đá bên con đường đi từ bãi Cát Cò 1 sang bãi Cát Cò 3. Ngoài thơ mình, ông Trường còn viết lên đá thơ của hai bà Nguyễn Thúy Ngoan, hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng và Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm của ba nhà thơ, một nam hai nữ xuất hiện cùng một thời điểm trên núi đá Cát Bà còn làm dư luận râm ran những lời đồn thổi...

Trên website và blog của một số nhà thơ như Phong Điệp, Lê Thiếu Nhơn, Hoài Khánh... đã xuất hiện những cuộc tranh cãi nảy lửa giữa phái phê phán (việc đề thơ lên núi đá) và phái phê phán sự phê phán! Tuy nhiên, không thấy ý kiến của "nhân vật chính".

Trao đổi với Thanh Niên, ông Phạm Xuân Trường nói:
Mình ra Cát Bà thăm con, tự nhiên thấy ngẫu hứng. Lại nhớ là trên Yên Tử, trên cầu đá lối lên chùa Giải Oan, mình thấy có bài thơ của ai đó viết bằng sơn vàng lên hòn đá tảng rất to. Nghĩ là người ta viết, thì mình cũng viết thôi.
* Dư luận đặt câu hỏi, tại sao lại có cả thơ của hai nhà thơ nữ nữa là Nguyễn Thúy Ngoan, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh cũng được viết trên vách núi Cát Bà?
Tôi đi ra Cát Bà một mình, cầm theo tập thơ Nón không quai của cô Ngoan, tập này do tôi vẽ bìa. Thơ của Ngoan là chép ở đấy ra. Riêng về cô Nguyễn Thị Đạo Tĩnh trên Hà Nội, tôi có gọi điện thoại cho cô ấy nói chuyện sẽ viết thơ lên núi. Cô ta bảo thế thì hay quá, có khi đấy cũng là việc làm có ích, nên tìm thơ về biển mà viết.
* Ông nhận thức sự việc này như thế nào? Mọi chuyện đã được xử lý ra sao?
Tôi chẳng nắm được luật lệ gì đâu, nên xin nhận thiếu sót. Đúng là trong cuộc đời, không cái dại nào giống cái dại nào. Đấy là ngẫu hứng ngớ ngẩn, hoàn toàn vô tâm vô tư, thậm chí là cuồng một tí. Tôi biết là Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Cát Hải ngoài ấy người ta đã lên kế hoạch để xóa đi. Nếu họ không xóa, thì tôi cũng tự ra để xóa.


Lưu Quang Phổ

IV/ “TRỘM” NGHĨ
Một ngày nào đó các thi bá Lờ Mờ, hứng tình rủ nhau leo núi đè thơ thì sao nhỉ ?
Mà cũng chẳng sao.
Thơ họ (các thi bá LM) có thể chỉ tạm thua thơ Vua văn Chúa chứ so với mấy vị Hội nhà văn nêu trên thì hơn cả cái đầu.
Không tin ư ?
Mời trư vị ngâm nga vài đoạn mỗ tạm dẫn:


Nhớ vườn xưa ấy gió đưa hương
Khóm trúc nắng luồn lá du dương
Ngọt ngào tinh khiết hương trà thoảng
Cóc bày cờ rượu cuộc li hương

Ê-già Éo-đà



Vần thơ treo ấn từ quan
Vườn thơ còn lại ngổn ngang nỗi lòng
Người thơ chìm nổi theo dòng
Tình thơ xuôi ngược long đong phận đời
Khí thơ còn vọng giữa trời...

Nhứt đẳng lưu manh - Thiên hạ đệ tam vô lại
Tổng Nghiện



Giọt nước mắt vỡ làm đôi
Nửa rơi Bản Giốc nửa đồi Trường Sa!

Tiểu Dân



Trai hắc nam ngày làm tắc núi
Gái anh hùng bắt cọp xô voi

Bùi Trâu



Đêm buồn không rượu cũng không hoa
Chỉ có bia lon với xì gà
Ngồi ngắm trăng sao cùng gái đẹp
Ta ngồi ôm gái....gái ôm ta

Huyện Lắc

Kỳ tới: Bình thơ một vài thi bá Lờ Mờ :lick:

[=========> Bổ sung bài viết <=========]

Món này Mỗ hạp :lick:

http://img144.imageshack.us/img144/6938/obesemattcardygettyer5.jpg


Hạnh phúc khi lấy được vợ béo


Tôi cực lực phản đối các tiêu chí và nghi ngờ khả năng thẩm mỹ của các vị giám khảo trong tất cả các kỳ thi hoa hậu, người đẹp của ta gần đây. Tại sao các vị lại thiếu thẩm mỹ đến thế khi trao vương miện cho những người con gái gầy khẳng khiu, cao lêu đêu như một cây sào? Những cô gái mà nếu ở làng tôi thì xin lỗi, ế chồng là cái chắc. Đấy, bằng chứng là cho đến bây giờ, chưa có một cô hoa hậu nào có niềm vinh quang là làm dâu làng tôi! Con gái làng tôi rất đẹp. Lưng to, vai nở, bắp tay bắp chân nổi cuồn cuộn. Nghĩa là, như các cụ làng tôi, “hông to rộng háng mới đáng đồng tiền”. Có thế mới là con gái chứ. Mới xứng đáng là hoa hậu chứ.

Có lẽ trong cuộc đời này, niềm vinh quang lớn nhất đối với tôi là có diễm phúc được đồng hương với một phụ nữ vĩ đại, khổng lồ nhất thế giới, của mọi thời đại. Nàng đáng ngàn lần đưa vào sách kỷ lục Guiness. Nàng không chỉ vào thơ mà còn vào cả nhạc. Bạn đã bao giờ nghe câu “Chị Hai năm tấn quê ở Thái Bình”? Đấy con gái quê tôi đấy. Thế, tôi tự hỏi không tự hào sao được.

Thật lòng, tôi rất khâm phục thi hào Nguyễn Du nhưng không bởi ông có truyện Kiều mà điều tôi kinh phục hơn cả đó là khả năng nhìn nhận, đánh giá về phụ nữ. Khi tả nhan sắc của nàng Thúy Vân ông viết:


“Vân xem trang trọng tót vời.
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”.

Ấy, cứ như lẽ ấy mà suy thì Thúy Vân chắc chắn phải béo. Thật sự béo vì “khuôn trăng đầy đặn”, đã là béo rồi lại còn “nét ngài nở nang” thì quả thật là phải quá béo... vĩ đại. Tôi không biết nàng đẹp vì béo hay chính béo mà nàng đẹp. Vì vậy, thật lòng tôi không hiểu nổi tại sao một nhà thơ mà tôi rất yêu mến và kính trọng lại có câu thơ về mô típ Thúy Vân:


“Người đầy đặn, má bầu bánh đúc.
Không biết đàn, không biết chi thơ.
Đặt mình xuống là quên trời đất.
Ngáy thường nhiều hơn những cơn mơ”.

Chưa hết, ông còn chê rằng:


“Nhà có việc như người ngoài cuộc.
Cứ ăn no ngủ kỹ như không.
Chẳng hò hẹn, chẳng cần thề thốt.
Chẳng yêu đương, em cũng...lấy được chồng.”

Mặc các bố giám khảo với các quan niệm, tiêu chí dở hơi của họ. Mặc cả cái ông nhà thơ hồn vía treo ngược cành cây. Các bạn, xin các bạn hãy tin tôi rằng không có gì hạnh phúc bằng và cũng không có gì sung sướng bằng lấy được vợ béo. Trước hết, xét về góc độ kinh tế. Chính sách một vợ một chồng của ta hiện nay mang nặng trong mình nó chủ nghĩa bình quân, “cá kể đầu, rau kể mớ. Một vợ là một vợ, một chồng là một chồng. Bất kể béo hay gậy. Do đó, những người lấy được vợ béo là rất lãi. 80 ký lô cũng bằng 40 ký lô vợ. Cứ theo thiển ý của tôi, chúng ta nên xem lại quy định rất bất công này. Thứ hai là về chất lượng. Các cụ ta đã dạy: “Nom mặt mà bắt hình dong”. Cứ theo lẽ ấy mà suy ra tấm lòng của một người vợ béo chắc chắn phải “ngon hơn, bổ hơn” tấm lòng của những người vợ chưa béo. Thứ ba là cảm giác. Ngày tôi chưa lấy vợ, lũ thanh niên làng tôi thường truyền nhau một quan niệm chọn vợ bằng hai câu lục bát:


“Chẳng tham nhà ngói Hon đa.
Chỉ tham cái dáng đẫy đà vòng tay”.

Dạo ấy, nhà ngói, xe gắn máy Honda là quý lắm. Còn bây giờ, bạn hãy tưởng tượng một ngày nào đó đi làm về lòng dạ đang sảng khoái, tâm hồn đang ngây ngất. Ta nhìn vào trong phòng. Chao ôi, vợ ta đang ngủ. Đầy chật một giường... vợ. nước da nàng hồng lên, mái tóc xõa xuống bờ vai trắng. Lúc ấy, khó mà cầm lòng không phạm vào chính sách kế hoạch hóa sinh đẻ. Và biết đâu, ta lại chẳng dạt dào cảm xúc mà thốt lên: “Vợ nằm đó khổng lồ vĩ đại. Thịt với da mê mải chảy xung quanh”. Tôi có môt người bạn làm thơ mà mọi nguồn cảm xúc đều bắt nguồn từ người vợ béo. Hẳn có những câu thơ rất nổi tiếng như “Vợ ta đó, rộng mênh mông. Lăn đi lăn lại....vẫn không ra ngoài”. Rồi những khi cao hứng, hắn còn ngêu ngao hát những câu đại loại như là: “Anh như con tàu trôi trong niềm sung sướng – Vợ một bên và...vợ cũng một bên”. Sướng nhỉ, lấy một người vợ mà ngó bên này cũng vợ mình, ngó bên kia cũng vẫn...vợ mình thì còn gì mà không sung sướng.
Hỡi những người phụ nữ đang béo, đã béo và vẫn béo, tôi có thể thay mặt tất cả những người đàn ông cùng sở thích trên khắp thế gian này mà tuyên bố với các bạn rằng chúng tôi vô cùng yêu mến, tự hào, sung sướng vì có các bạn. Chính các bạn đã làm cho cuộc sống trên thế gian này hoành tráng hơn, phong phú hơn và màu mỡ hơn. Tôi có thể kiêu hãnh mà tuyên bố rằng: Hạnh phúc là lấy được...vợ béo. Tôi chỉ nhắc khẽ các bạn một điều hãy cảnh giác với những người phụ nữ có thân hình mảnh mai, thon thả bởi đó là những người có nhiều khả năng cuỗm đi của bạn một đức ông chồng. Đơn giản chỉ vì cái lũ đàn ông xưa nay luôn luôn muốn đi tìm kiếm cái mà mình không có. Khi đã có một chú cá quá mỡ màng, họ lại mơ về một...con cá mắm.

cu em
22-07-2008, 18:14
http://img144.imageshack.us/img144/6938/obesemattcardygettyer5.jpg


Hạnh phúc khi lấy được vợ béo

Mịa! Chú này mơ về một chốn xa vời. Tán Khéo :lick:

tuanenti
22-07-2008, 18:36
Trời lặn xuống giùm, pray cho tui ngũ. Viết hay nhưng dài quá, sao không chọn từng chủ đề ví dụ như: NHỚ TỐ HỮU, NHỚ QUANG VŨ-XUÂN QUỲNH, NHỚ BÚT TRE, NHỚ V.V.và vân vân......................

nino
22-07-2008, 20:33
Chỗ này là cái quán văn chương mà bác... đủ thứ có hết ở trong này :D, phân chia cho cho mệt...lol

TNDH
23-07-2008, 08:45
Đọc báo sáng tức tác:

BA BÒ (http://www2.thanhnien.com.vn/Xahoi/2008/7/23/252038.tno)
Thằng Bờm phe phẩy quạt mo, tiểu dân thấy hỏi:
- Ba Bò đến đâu?
Bờm rèng:
- Bờm hổng biết đâu!
Tiểu dân lại hỏi:
- Bao lâu mới thành?
Bờm rèng:
- Bờm cũng hổng rành.
:lick::lick::lick:

[=========> Bổ sung bài viết <=========]


NÁI… LÓI
“Nói lái” là một trong những món “đặc sản” của văn học gian… dân VN, topic này tạm sưu tầm một vài bài tiêu biểu cho dòng thơ nái lói hậu hại điện:



CỜ VÀNG thì tình CÀNG VỜ
CỜ XANH sao rụng CÀNH XƠ xác cành
CỜ ĐỎ ông CÒ ĐỠ anh
CỜ HỒNG cái CÒNG HỜ nhanh lắm bồ
Treo CỜ GÌ đỡ KỲ GIỜ?
Ê, CỜ TÂY hạ CẦY TƠ ra đời!



Hành đảo ngữ kể từ GIẢI PHÓNG
Thi ca làm PHỎNG DÁI niêm vần
Muốn in báo phải làm đầy tớ
Nhưng ta nào phải kẻ lòn trôn
Ta nào phải là ông Hàn Tín
Phò Lưu Bang phản bạn lừa thầy

KỸ SƯ vì thế thành CƯ SĨ
THẦY GIÁO từ đây chịu THÁO GIÀY
Họp ĐỒNG CHÍ thấy toàn ĐÌ, CHỐNG
XÔ VIẾT ngày nay khoái XIẾT VÔ
Hình treo LỘNG KIẾNG như LIỆNG CỐNG
Ðể thằng TO DỰ hét TỰ DO




GIÁO CHỨC đói meo đành DỨT CHÁO
Làm NHÀ THƠ vô bót NHỜ THA
THIÊN TÀI không đủ THAI TIỀN hả?
CẤT ĐUỐC về quê CUỐC ĐẤT à!

KHIẾN CHÁN ta làm thơ KHÁNG CHIẾN
Gào THI ĐUA chú bịp THUA ĐI
LÀM THƠ mà LỜ THAM mới nhục
THÌ CẤY cày mất đất THẤY KỲ

LÃNH TỤ sạch nhờ ôm TỦ LẠNH
BẨN NGƯỜI DO bác BỎ NGƯỜI DÂN
BÁC ĐI quá sớm thành BI ĐÁT
NGHỆ SĨ tụi con NGHĨ XỆ quần…




Phấn lau chưa dứt nghe pháo lân
Tân niên rót rượu mời Tiên nâng
Cô dâu hứa đãi ăn dưa hấu
Chú rể tinh thần tựa tình thân
Có ông phó đảo châm pháo đỏ
Chú lính xuân qua muốn xa quân
Mang vài chậu kiểng mai vàng rộ
Xin tuần nghỉ phép thoả tình xuân

Về thường thăm lại vườn thề
Buồn lo trăm mối não nề bò luôn
Cuộn cho dùi mập cọ chuông
Người giàu sâu hiểm, chớ buồn dầu sao
Đau lòng lên tận Đông Lào
Thầy tăng ra đón, vẫy chào thằng tây
Tây đà vốn biết ta đầy
Bầy gà tre gạ đổi ngay ghe trà
Chả thằng nào bảo chẳng thà
Đổi trao như vậy chắc là đảo trôi
Vội ta mắc phải vạ tôi
Đành thôi vác chiếu về ngồi đồi thanh
Bánh ong* để dưới bóng anh. . . . .(bánh tổ ong)
Ăn rồi chợt nghĩ lanh quanh: Ôi rằng
Bắn trong khung vẻ bóng trăng
Làng thâm u quá cũng bằng lầm than
Ngang vài cung gấm ngai vàng
Khổ lòng ngắm thử y chang khổng lồ
Cố ra tìm bắt cá rô
Kho chi một tộ khi cho họ mừng...

tiểu dân
27-07-2008, 06:03
Ông chủ ơi, cho xin một đồng Đỗ Tốn, ba đồng Hoa Vông Vang, với năm đồng Ả Hậu. Tự nhiên lại cồn cào nhớ một Thạch Lam thứ 2 trong nền văn học tiền và hậu chiến, nhớ 1 nụ cười ẩn sau dòng chữ, sau nhân vật, nhớ những kiếp sống của cả 1 thời xa lắm.

[=========> Bổ sung bài viết <=========]

Một đồng Đỗ Tốn, 3 đồng Hoa Vông Vang với 5 đồng Ả Hậu vị chi 9 đồng, TD trả trước 7 đồng, xin ghi sổ 2 đồng:


Trần Dần & Tố Hữu

Tất nhiên, không ai tin việc tập thơ Trần Dần bị “niêm phong” chỉ vì vài cái lỗi về thủ tục. Nhưng thôi, đó cũng là một lối ra rất đỡ mất mặt. Dù sao, Thơ Trần Dần cũng đã bán rất chạy, ngay đến cậu con trai tôi, 15 tuổi, cũng tò mò.

Thơ ông đa nghĩa quá. Chỉ riêng một bài Nhất Định Thắng, tôi nghĩ, đã có thể vừa quy kết ông là một tên phản động cực kỳ nguy hiểm, vừa có thể ca ngợi ông như một người yêu nước nồng nàn. Không hiểu sao, cho tới nay, chưa thấy ai làm một bộ phim truyện dựa trên bài thơ ấy. Ta ở phố Sinh Từ... Một giai đoạn lịch sử buồn đau của đất nước hiện ra mồn một trong mỗi câu thơ của ông.

Khi Trần Dần viết bài thơ ấy, đất nước đang bị phân đôi, ở miền Bắc chiến tranh kết thúc. Nhưng, cuộc sống của người dân thì không có hòa bình. Trần Dần viết: Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc/Đất hôm nay tầm tã mưa phùn/Bỗng nhói ngang lưng/máu rỏ xuống bùn/Lưng tôi có tên nào chém trộm? Không hiểu, hình tượng “vết chém ngang lưng” ông viết ở đây là để nói về nỗi đau chia cắt tổ quốc hay chỉ đơn giản nói về cái không khí ngột ngạt ở miền Bắc, cái không khí mà đến 30 năm sau, Hữu Loan vẫn nhớ: “Thành viên nào (trong cộng đồng) cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh”.

Theo Hiệp định Geneve, người dân có một thời gian dài để chọn cho mình miền Nam hay miền Bắc. Nhưng lúc ấy, không có ai tự nguyện từ miền Nam chạy ra “Miền Bắc thiên đường của các con tôi”. Trong khi, hàng triệu người dân đã gồng gánh vào Nam để lại mồ mả ông bà trên đất Bắc. Thoạt đầu, có vẻ như Trần Dần trách móc, thậm chí ông đã buộc tội “những bạn đi Nam” là Thiếu quả tim bộ óc! Nhưng rồi quan sát kỹ hơn, ông buột hỏi: Họ vẫn ra đi/ - Nhưng sao bước rã rời?/Sao họ khóc?/ Họ có gì thất vọng?

Trong những ngày xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ấy, tình hình Thế giới được “quán triệt” thành hai “phe” Xô- Mỹ. Nhưng cái “phe” mà ông quan tâm cũng “căng thẳng” vô cùng: Gặp em trong mưa/Em đi tìm việc/Mỗi ngày đi lại cúi đầu về/- Anh ạ!/ Họ vẫn bảo chờ... Ông nghĩ: Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt./Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt./Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù/Chúng còn đương bày kế hại đời ta? Nhưng “cơm áo” không phải là những gì ngột ngạt nhất mà những người như ông đã từng nếm trải.

Theo tác giả của Màu Tím Hoa Sim, nhà thơ Hữu Loan: Trên thực tế, khi ấy, rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Các văn nghệ sỹ lúc ấy phải học tập những tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, từ Liên Xô đưa về, rồi tự Diên An (Trung Quốc) đưa sang. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có, chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Theo ông Hữu Loan: Khi một nhà báo hỏi: “Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận?” Ông Trường Chinh sửng sốt: “Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi.” Tố Hữu là một trong những nhà lãnh đạo hăng hái đưa “hiện thực XHCN” vào văn nghệ. Trong khi Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… phản đối đường lối này. Những người phản đối sau đó, lần lượt dính vào một vụ án gọi là “Nhân Văn Giai Phẩm”.

Phong trào Giai phẩm và Nhân Văn bắt đầu khi hai nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt phê phán tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu là “dòng thơ lục bát không có gì mới, nội dung vân vê kỷ niệm không lấy gì làm sâu sắc”. Trần Dần là người phê nặng lời nhất. Tuy nhiều người tán thành với nhận xét này nhưng tập thơ vẫn giành được giải nhất đầu năm 1956. Về sau, nhóm Nhân Văn còn viết nhiều bài được coi như là những “Thất Trảm Sớ”, đặc biệt, bài của Nguyễn Hữu Đang nói về thiết lập nhà nước Pháp quyền. Ngày nay, nếu đọc lại những bài viết của nhóm Nhân Văn, phải công nhận là nước ta đã từng có những nhà trí thức khả kính. Đất nước ra nông nỗi hiện nay là bởi lịch sử đã không chọn họ. Trần Hữu Đang bị tù 17 năm; Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh”: 7 năm tù giam; Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha; Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm... Khi Hoàng Cầm cho in Nhất Định Thắng, Trần Dần bị mất chức và sau đó bị bắt giam. Nếu Trần Dần không dùng lưỡi lam rạch cổ, có lẽ thời gian “ở trong lao” của ông không chỉ là 3 tháng. Trong tình cảnh ấy, mấy câu thơ: Những ngày ấy bao nhiêu thương xót/Tôi bước đi/không thấy phố/không thấy nhà/Chỉ thấy mưa sa/ trên màu cờ đỏ… không hẳn là không mang ít nhiều ẩn dụ chính trị.

Cho dù phải sau khi Tố Hữu chết, các ông Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt… mới được “chiêu tuyết”, vụ “Nhân Văn” không đơn giản chỉ là những vấn đề giữa các cá nhân với nhau. Một nhà nghiên cứu viết, ở thời điểm ấy, thay đổi là một quy luật. Người biết và sử dụng được quy luật thì thăng quyền tiến chức, như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi; người biết, nhưng chỉ né tránh thì tồn tại như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng; hay xa lánh như Nguyên Hồng. Người không biết, thì đành phải sa hầm sẩy hố… Kể ra thì, các bác ấy sống quá tử tế, làm thơ quá thơ, tính đa nghĩa trong thơ của các bác ấy thật dễ để mà suy diễn. Nếu, 50 năm trước, các bác ấy cứ theo Tố Hữu, viết huỵch toẹt: Má thét lớn tụi bay đồ chó/Cướp nước tao, cắt cổ dân tao…; hay thật xạo: Yêu biết mấy nghe con tập nói/ Tiếng đầu lòng con gọi Stalin… rồi trơ trẽn khi nghe tin Stalin chết: Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười, thì cuộc đời các bác ấy chắc chắn đã không phải thế.

Viết như thế không chỉ giúp Tố Hữu leo dần tới BCT, đã từng có lúc ông nhà thơ khẩu hiệu này lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế cho đất nước. Chúng ta không chỉ là nạn nhân của ông ở góc độ “giá lương tiền”. Suốt gần 30 năm, sách vở ngập tràn thơ Tổ Hữu. Bài thi nào cũng Tố Hữu. Giải bình thơ hay nào cũng Tố Hữu. Biết bao thế hệ đã tưởng đấy là thơ. Dân trí đã từng bị đặt trong cái “thênh thang 8 thước” đó. Nay thì Tố Hữu đã chết. Mới đây, gia đình ông đã bán nốt căn biệt thự ở phố Hồ Xuân Hương với giá tính bằng đô la cũng hơn 7 triệu.

Trong khi những người như Tố Hữu được ban những bổng lộc như vậy, những người như Trần Dần, Hữu Loan lại bị đọa đày. Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông Hữu Loan, kể: “Chúng tôi nuôi 10 đứa con thật vô cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thức rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây số đi học." Các con của Hữu Loan gần như không có ai vào được đại học vì lý lịch của một kẻ “Nhân Văn”. Một người con thi đủ điểm đi học nước ngoài cũng không được đi học. Ông đã bị biết bao người thân trách cứ. Nhưng, khi quyết định rời bỏ Hà Nội về quê, Hữu Loan đã nói với vợ: “Thôi thì bà với các con chịu khổ để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được”. Ông giải thích: “Làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi, viết vừa lòng dân thì đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày”.

Đôi khi nghĩ, những người như Hữu Loan, Trần Dần dại thật. Nhưng, Những ngày ấy bao nhiêu thương xót, làm sao có thể bắt những người như các ông có thể quay lưng lại với nhân dân!

Nhà báo Huy Đức
http://blog.360.yahoo.com/blog-_Q78P6g5br89WVUa77qC3PG4?p=3079

Huy Đức còn quá nhẹ tay, chỉ nói sơ qua giai đoạn "nhà thơ làm kinh tế" khiến cho bức tranh bị lẹm mất 1 góc. Nếu là TD viết bài này, lời lẽ có lẽ đã không được nhẹ nhàng như thế. 2 đồng thiếu nợ kia chắc chắn sẽ có dịp trả, cho bức tranh trọn vẹn hơn.

Huy Đức, nếu chú có đọc bài này, cháu xin lỗi đã copy bài chú mà không xin phép chú.

TNDH
01-08-2008, 08:32
Trong hội thảo về nhà văn Nguyễn Quang Sáng diễn ra sáng 29.7.2008 tại Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật TP.HCM, ngoài các tham luận bằng văn xuôi, còn có một tham luận độc đáo bằng thơ lục bát của nhà thơ Nguyễn Duy. Vì bận việc, nhà thơ Nguyễn Duy đã nhờ nhà văn Triệu Xuân đọc giúp.
Nam kỳ có bác Nguyễn Quang
Sáng, dân Chợ Mới gốc làng Mỹ Luông
Phong lưu từ thuở ở truồng
Vừa cầm bút đã ngoáy Con Chim Vàng
Qua thời Đất Lửa gian nan
Thênh thang một Cánh Đồng Hoang tung hoành
Mấy Mùa Gió Chướng qua nhanh
Dòng Sông Thơ Ấu chảy thành ngày xưa
Còn Bông Cẩm Thạch đong đưa
Lược Ngà chải tóc cho mưa... vẫn còn
Vẫn ngày mấy cữ rượu ngon
Và còn… đủ các loại Con trên đời
Con chim quên tiếng hát rồi
Thì Con Gà Trống gáy chơi vang nhà
Thêm Con Mèo Fu-ji-ta
Có mèo, có cả đô la đãi mèo
Kệ ai giả khổ, giả nghèo
Dù ai khen õng, chê eo mặc lòng
Con ngoài hòa thuận Con trong
Phúc-Lộc-Thọ được như ông… nhất đời!

[=========> Bổ sung bài viết <=========]


http://img168.imageshack.us/img168/4008/babyrockbysamlimoi1.jpg


Con trai



Tản văn của nhà văn Nguyễn Quang Lập

Mình có cả trai lẫn gái nên chẳng mấy quan tâm đến nỗi buồn của mấy ông rặt sinh con gái. Chẳng biết con trai sau này chúng nó có hầu được bố mẹ gì không nhưng ai cũng thèm con trai.
Nuôi được đứa con trai từ khi nhỏ đến khi cho ra ràng thật mệt bở hơi tai. Nói dại mồm, con gái nếu có lỡ dại thì nó chỉ mang cái trống về nhà, còn con trai thì lo đủ chuyện, hết lo đánh nhau đến lo cờ bạc, lo đua xe, lo hút xách, trốn học, gái gú.. một trăm thứ lo.

Thằng Ngọc đã có đứa con gái vừa ngoan vừa giỏi, thi đại học trúng hai trường, về nhà lo cho bà nội già cả ốm yếu ngơ ngẩn rất mực dịu dàng, vợ nó còn phải học tập. Thế nhưng nó vẫn mơ con trai. Đến nhà ai có con trai nó nhìn hau háu đầy thèm muốn.
Mình nói mày viết báo viết kịch viết phim hô hào mọi người trai gái cũng là con, thời buổi này mơ được anh quí tử là lạc hậu rồi, sao vẫn siếc con trai. Nó bảo tao giáo dục dân chúng thì được, chứ giáo dục tao không có nổi, con trai vẫn là nhất.
Mình nói với nó mày nhậu ghê thế, đẻ con gái là phải, kinh nghiệm cho thầy đa phần con gái là rượu đẻ chứ không phải mình đẻ, con May ơ là rượu đẻ chứ không phải tao đẻ đâu.
Nó bảo đéo phải, vợ tao có bài rồi, bắt đầu từ tháng sáu này tao bắt đầu chiến dịch đẻ con trai.

Tháng sáu nó bắt đầu thực hiện thật, rượu uống mấy ly, uống giờ nào, uống rượu gì? Đồ mồi ăn thứ gì, buổi này ăn con này, buổi kia ăn thứ kia nó nhất mực răm rắp nghe theo lời vợ nó.
Vợ nó là bác sĩ, chủ nhiệm khoa, nó thì mù tịt y học không nghe không được. Bạn bè nói con Vi nó muốn kiểm soát việc ăn nhậu của mày đó thôi, đừng nghe nó tàn đời em ơi. Nó nói chúng mày đừng cản tao, một là vâng theo lời Bác, hai là vâng theo lời vợ, kiên quyết không vâng theo lời mấy thằng nhà văn ba lăng nhăng chúng mày.

Nó nhịn nhục nghe theo vợ nó ba tháng trời, đang nhậu, sướng, muốn uống thêm ly nữa, vợ nó nhắc anh ơi con trai, nó tẽn tò bỏ ly xuống.

Có tuần ăn đúng một món, chán phát điên, vợ nó cứ gắp cho liên tục, nó nuốt không nổi, chực trào ra. Vợ nó bảo anh ơi con trai, nó vội vàng gật gật phùng mang trợn mắt nuốt đánh ực.
Đến cái đoạn make love mới đau thương. Nửa đêm sướng, nhảy lên bụng vợ, vợ nó đẩy ra ây ây chưa đến 4 giờ 30... chưa được. Nó nói con gì thì con em ơi, làm phát cho xong mẹ nó đi. Vợ nó nghiêm mặt nói không được, xuống! Nó nằm vật ra thơ dốc, mở tủ lạnh lấy đá ướm lạnh chim để ngủ.

Đến 4h30 vợ nó soạn sửa xong xuôi đánh thức nó dậy, nó vừa ngáp vừa dúi, ngán ngẩm như nửa đêm bò vào trinh sát đồn địch vậy. Vợ nó quát anh ơi con trai mau lên, nó giật mình dúi liên tục rồi năm vật ra thở phào, may quá ra rồi..và ngủ vùi.
Suốt ba tháng đau thương đêm nào cũng thế. Tưởng xong rồi, thoát rồi thì vợ nó đọc được tài liệu gì đó nói trước khi hành sự phải ngâm bộ hạ vào nước ấm 42 độ, bắt nó thực hành.
Đang sướng nhảy lên, vợ nó đẩy xuống, nói ngâm dái mau lên. Vợ nó hoà nước sôi, lấy nhiệt kế đo đủ 42 độ rồi bảo nó ngồi vào chậu.

Nó ngồi vào chậu cằn nhằn chưa thấy ai khủng bố chim chồng như vợ tôi đây.
Vợ nó trừng mắt nói anh đừng có nói tào lao, ngâm đủ 10 phút rồi nằm ngửa nhìn đồng hồ. Nó ngồi ngâm, nhìn giàn thiên lý tuyệt hảo của vợ đang phơi ra mà không làm gì được, tức muốn chết, nó than người ta nói một ngày tù nghìn thu ở ngoài, mình thì một phút ngâm chim nghìn thu ở ngoài, khổ ơi là khổ.
Vừa đủ 10 phút nhỏm đít đứng dậy thì chim cò cũng tong teo, đi đời nhà ma.

Ba tháng vất vả rồi cũng qua, vợ nó có chửa, nó hí hửng nói chúng mày chờ xem trình độ khoa học của bố mày nha. Đến khi siêu âm biết con gái nó cười mếu máo nói trai gái gì cũng được, nhưng tao tức vô cùng ba tháng vợ tao khủng bố chim tao.

Có gửi lời nhắn khi nèo bác Lập vào Sè-ghềnh anh em làng Mùi sẽ tiếp bác tại Bát thập nhất tửu điếm.

TNDH
04-08-2008, 10:38
Tráng miệng:

Từ tin và ảnh:

http://img368.imageshack.us/img368/5878/thaikamca8.jpg

Tớ chú ý đến đoạn cuối tô vàng, lên mạng "xiệc" tìm thấy tấm nì:

http://img135.imageshack.us/img135/6605/preahvihearfo6.gif

Xem để thấy rõ hơn vị trí báo tả thía thui :lick:

TNDH
07-08-2008, 10:33
Tủn mụn chiện con Cờ

Nói trước, tớ bít nhưng hổng rành chơi cờ tướng và cờ vua.
Cờ vây thì mù tịt.
Cờ cá ngựa hổng ham.
Cờ ca-rô, tỷ phú… chơi hùi nhỏ dừ miễn dịch hết ham.

Nhàn đàm hạ xì-trét, tủn mụn về 2 loại cờ nêu đầu tiên, do kiến thức hạn chế nên nghĩ sao viết dzậy, thiên hẹ chớ mất công bắt giò.

1/ Bàn cờ:
Bàn cờ chính là chiến trường.
Bàn cờ vua trông như một bình nguyên, bằng phẳng làm tớ liên tưởng đến các trận đánh của dân Âu. Trận Austerlitz, trận Waterloo của Nã-Phá-Luân đều diễn ra trên những cánh đồng ngút ngàn “cò bay thẻng cánh – chó chạy cong đui” Xem nhiều phin về Châu Âu trung cổ cũng thấy toàn uýnh nhau trên đồng rộng.


http://img515.imageshack.us/img515/5025/chessboardultrechtip7.png

http://img95.imageshack.us/img95/1590/xiangqiqw2.png

Bàn cờ tướng thì ngược lại, xem ra cũng có đồng bằng dưng lại có thim sông, thim thành quách phù hợp với các trận chiến từng thấy trong truyện, trong phin nhà Tàu.

Túm lại: Tớ thích uýnh nhau trên đồng vì thoáng hơn rất nhìu, chơi cờ Vua quen chuyển sang cờ Tướng cảm thấy nước đi gò bó qué !

2/ Quân cờ:
- Quân cờ tướng: chẳng đẹp bằng quân cờ vua, anh nào anh nấy đều chỉ là những khối tròn như cái trống ếch, múp míp như cái bánh xe tay ga. Viết đến đây mới nhớ, hùi nhỏ bị một trận “quắn đít” vì dám lấy 4 quân cờ của ông anh làm bánh xe kéo chơi. Từ anh lính đến ông tướng chỉ nhận ra từ con chữ khắc trên mặt cờ. Thui thì cũng tạm cho là quân đội nhà Tàu khá là hòa đồng. Tướng sĩ trên dưới một lòng, một ly rượu đổ xuống sông cả vạn người múc uống… Chả biết có ngon hông hay chỉ để tự sướng.:lick:

- Quân cờ vua: phân biệt “giai cấp” rõ rền rệt. Chú Chốt nhùn nhất đám, bọn sĩ quan như chị Ngựa, anh Voi, gã Xe đều cao ráo và (hình như) bọn quý-xờ-tộc như 2 lão Vua – mụ Hậu là cao nhức, đẹp nhức.:yes:

- Quân đội anh Tàu dường như hiện đại hơn anh Tây đấy nhể :yes:, bằng chứng nhé: anh Tàu có pháo còn anh Tây chỉ dụng voi (?) Dưng voi anh Tây lại xung hơn voi anh Tàu, tấn công phòng thủ khắp chiến tràng thật hữu hiệu, còn anh Voi Tàu loanh quanh lẩn quẩn trên sân nhà vì hổng biết lội nước qua sông ?:emlaugh:

- Kỵ binh thì cả 2 anh Tây Tầu đều có, đều mạnh. Dưng chị Ngựa Tàu bị kìm kẹp hơn ả ngựa Tây (chả hỉu vì seo?):no:

- Bọn chóp bu: bên cờ Tướng có anh Tướng, 2 anh Sĩ. Dấu ấn phong kiến nhà Tàu thể hiện rất rõ ở mấy điểm sau:
* Ra trận thường là Tướng, thực tế lịch sử cũng đã cho thấy Vua Á Đông rất hiếm khi ra trận. Tướng Tàu quanh quẩn trong thành, xum xoe 2 anh Sĩ bọc lót.
* Võ nghệ anh Tướng xem ra kém hơn chú Tốt. Hai anh này đều đi cà nhắc từng bước một, chú Tốt đứng ngoài thành có thể mổ anh Tướng ngược lại anh Tướng trong thành thì đách làm gì được chú Tốt đứng sát mình nhưng ngoài thành.
* Vua cờ Tây (đừng lái lại nhé) cũng đi cà nhắc, dưng lão í đi được bốn phương tám hướng...
(Còn)

dly
07-08-2008, 11:22
Làm bãi về cờ người đi lão thích Nu :lick:

The Old Man
07-08-2008, 11:25
TNDH củng dùng ngôn ngử chat của teen nửa há.

thanhtruc1694
07-08-2008, 11:39
lâu ngày không vào Quán văn chương. Hôm nay thấy hơi bất ngờ . Thành viên nhà mình đông đảo quá ta


------------------------------------------------------------

Bạn có một sản phẩm muốn bán. Bạn muốn mua hàng hóa nào. Thông tin mới nhất hàng ngày bạn đã có chưa!! Đừng lo hãy đến trang web bạn sẽ có được những điều như mong muốn http://www.timlaco.vn/ (http://www.timlaco.vn/%20)

TNDH
08-08-2008, 14:57
http://img523.imageshack.us/img523/4576/trangthowk0.jpg

[=========> Bổ sung bài viết <=========]


Sếp tôi dùng chữ
Nguyễn Văn Tưng
Tuổi trẻ cười


Có lẽ đã từng một thời sống ở khu tập thể cao su, xà phòng, thuốc lá gọi tắt là cao xà lá nên sếp tôi trở thành bậc thầy trong việc ghép tắt các từ, đại loại như điều nghiên… nhưng những cặp từ của sếp thuộc loại quái ngôn hơn nhiều. Ngay từ những ngày đầu về cơ quan, sếp tuyên bố hùng hồn với nhân viên: “Đây là thời kỳ đổi mới, các đồng chí nên có ý thức tiết kiệm thời gian, vận dụng từ chính xác, ngắn gọn dễ hiểu, các bản báo cáo trình lên cho tôi phải hết sức cụ tỉ và cô súc”.

Thấy chúng tôi ngơ ngác, hoang mang, sếp cao giọng giảng giải: “Các đồng chí còn kém suy luận lắm, này nhé cụ tỉ là nói tắt của hai cụm từ cụ thể và tỉ mỉ, cô súc có nghĩa là cô đọng và súc tích thế thôi, chẳng có gì là cao siêu hết, đây là một cách nói gọn gàng dễ hiểu phải không các đồng chí?”. Chúng tôi thừ người và bắt đầu “ngộ” ra. “Cụ tỉ, cô súc” nghe như những cặp từ đối nhau chan chát.

Với ngôn từ của sếp thì những chuyện xảy ra đã lâu, thuộc dĩ vãng quá khứ thì phải gọi là dĩ khứ. Tuy vậy, những từ này còn tạm nghe được nhưng đến một hôm được phân công đi giao lưu với đơn vị bạn thì chúng tôi thật sự kinh hoàng khi nghe sếp lệnh: “Các đồng chí đi giao hợp với đơn vị bạn thật chặt chẽ vào, bên cạnh đó cũng phải điều kinh cho tốt”. Một số nữ nhân viên đỏ mặt liền bị sếp quát “Cấm nghĩ bậy! Ý tôi muốn nói rất đơn giản rằng: giao hợp là giao lưu và hợp tác, điều kinh là điều tra kinh nghiệm làm ăn của họ. Thế đấy, rất đơn giản mà cứ nghĩ bậy!”.

Phải một thời gian khá dài chúng tôi mới quen cách dùng từ quái chiêu của xếp, nhờ chịu khó suy luận mà chúng tôi đỡ phải khốn khổ khi một lần đi cơ sở, sếp bảo chúng tôi cố gắng “phát tài để đầu lâu”, rất vất vả mới hiểu ý sếp muốn rằng chúng tôi cố gắng phát hiện tài năng để có hướng đầu tư lâu dài.

Với nguy cơ dịch cúm gia cầm, cho đến nay trong cơ quan tôi chưa có ai phải nhập viện vì sốt cao, ho hen. Sếp tập trung nhân viên và có lời khen chúng tôi đã “động phòng” rất tốt, sau bao lần đúc kinh, chúng tôi mới hiểu ra rằng đấy là sếp khen tập thể nhân viên trong cơ quan đã biết chủ động phòng tránh dịch cúm gà rất tốt.

Tết này dẫn theo các nhóc đến thăm sếp để chúc Tết, chắc tôi cũng có một chút “sáng tạo ngôn ngữ” khi giới thiệu với sếp rằng các con tôi đứa nào cũng “ngoan cố”, ý là ngoan ngoãn và cố gắng. Thế nào cũng được sếp lì xì…

Tưởng gì, dân làng Mùi từ lâu cũng đã biết cách dùng chữ cô súc như hoặc hay hơn ông Sếp nọ, này nhé:
- Phóng tinh = Phóng vệ tinh
- Xuất tinh = Xuất hết tinh thần
- Giáo sĩ = Giáo sư tiến sĩ (đọc vội có khi thành Tiên sư giáo sĩ)
- Trấn cửa mình = Trấn giữ cửa nhà mình
- Động dục = Phát động phong trào thể dục
Còn nữa ai tiếp nhé :lick:

nino
10-08-2008, 22:30
- Phóng tinh = Phóng vệ tinh
- Xuất tinh = Xuất hết tinh thần
- Giáo sĩ = Giáo sư tiến sĩ (đọc vội có khi thành Tiên sư giáo sĩ)
- Trấn cửa mình = Trấn giữ cửa nhà mình
- Động dục = Phát động phong trào thể dục
Còn nữa ai tiếp nhé :lick:

Lúc trước thấy có bài của bác Kền cũng nói về cái ni... lâu quá rồi tìm lại không thấy nữa :(

Vĩnh Thắng
10-08-2008, 22:46
Em có nè:

Âm đạo = Âm nhạc và Biên đạo

DVE_bihoctinhoc
11-08-2008, 20:56
Em có nè:

Âm đạo = Âm nhạc và Biên đạo

Cái ông này suy diễn lung tung :buck:

lol

nino
12-08-2008, 08:23
Em có nè:

Âm đạo = Âm nhạc và Biên đạo

thế còn Âm nhạc và Sinh vật thì sao ta lol

pippo24
12-08-2008, 16:03
Giao lưu + cấu kết : giao cấu.
giao lưu + phân phối : giao phối.

TNDH
14-08-2008, 11:10
NHÂN MÙA VU LAN
1/ Ca dao:



Miệng ru mắt nhỏ hai hàng,
Nuôi con khôn lớn mẹ càng thêm lo.
************
Chim trời ai dễ đếm lông,
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày.
************
Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi,
Ngó không thấy mẹ, bùi ngùi nhớ thương.
************
Ra đi mẹ có dặn dò,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.
************
Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
************
Mẹ già ở chốn lều tranh,
Đói no chẳng biết rách lành chẳng hay.
************
Mẹ già đầu bạc như tơ,
Lưng đau con đỡ, mắt lờ con nuôi.
************
Nuôi con mới biết sự tình,
Thầm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa.
************
Mẹ nuôi con bấy lâu rồi,
Nuôi con khôn lớn thành người mới nghe.
************
Con ơi mẹ bảo câu này:
Học buôn học bán cho tày người ta,
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
************
"Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
Dã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già."
************
"Biển đông còn lúc đầy vơi,
Chớ lòng Cha Me suốt đời tràn dâng."
************
"Ở đời ai cũng có lần
Làm cha mẹ mới biết ơn sinh thành.
Người xưa khó nhọc nuôi mình
Khác chi mình đã hết tình nuôi con"

2/ Thơ:



Hôm nay ngày lễ Vu Lan
Phật đài Mẹ tụng một tràng Vu Kinh
Con nghe thơm ngát quanh mình
Giọng trầm lên bổng, Mẹ nhìn con yêu.
************
« Trên trời có đám mây xanh »
Dưới thế có Mẹ ngồi canh giấc nồng
Phù vân muôn kiếp bềnh bồng
Còn Mẹ thì vẫn một lòng bên con.
************
Con ngủ mà miệng vẫn cười
Tai nghe tiếng Mẹ ru hời…à…ơ…
Yên tâm giấc ngủ tuổi thơ
Nụ cười còn ủ giấc mơ thiên thần.
************
Con đi giữa chợ đông người
Lòng không e sợ, miệng cười ngây thơ
Vì chưng có Mẹ đứng chờ
Để dắt con bước lên bờ bình yên.

3/ Kinh thánh:


1- Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, để được sống lâu trên mặt đất, mà Đức Chúa Trời của ngươi ban cho ngươi. (Xh 20,12)
2- Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền với các con. (Hc 3, 2)
3- Vì phúc lành của người cha làm cho cửa nhà con bền vững, lời nguyền rủa của mẹ làm cho chốc rễ bật nền. (Hc 3, 9)
4- Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. (Hc 3, 6)
5- Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ mang nặng đẻ đau. (Hc 7, 27)
6- Hỡi con, lệnh cha truyền, hãy lo tuân giữ, lời mẹ dạy, chớ bỏ ngoài tai. (Châm ngôn 6, 20)
7- Châm ngôn của vua Salômôn : Con khôn làm cha vui sướng, con dại làm mẹ buồn phiền. (Châm ngôn 10, 1)
8- Con ngu khiến cha buồn giận, con dại làm mẹ đắng cay. (Châm ngôn 17,25)
9- Ước chi cha mẹ con được hoan hỉ, và người sinh ra con được mừng rỡ. (Châm ngôn 23, 25)
10- Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc cha mẹ đừng làm con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng. (Côlôsê 3, 20-21)
11- Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. (Êph 6, 1-3)
12- Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận; nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy. (Êph 6, 4)

4/ Tục ngữ:


- Mẹ dạy con thì khéo, bố dạy con thì khôn.
- Mẹ đánh một trăm, không bằng cha hăm một tiếng.
- Mẹ chồng dữ mẹ chồng chết, nàng dâu có nết, nàng dâu chừa.
- Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi mẹ, con kể từng ngày.

5/ Văn:


Con yêu dấu, khi cha mẹ đã già. Cha mẹ không còn tươi như hoa. Mà nhăn nhó, mặt cau, mắt ướt. Con sẽ thấy không còn vui như trước. Nhưng cũng đừng cau có lại mẹ cha. Vì khi xưa, con khóc óe vang nhà. Mẹ cha vẫn vui tươi như hội.

Nếu cha mẹ, tay run không cầm nổi. Một tô cơm mà đánh đổ ra nhà. Con cũng đừng gắt mắng cha mẹ già. Vì lúc bé, con vẫn thường rơi vãi. Mẹ cha vẫn phải khom lưng nhặt lại. Từng miếng cơm, chút thịt con làm văng. Mẹ vừa cười vừa nhìn con lăng xăng.

Nghe con “xin lỗi” mà ấm lòng như Tết.

Nếu cha mẹ có nói nhiều, phát mệt. Nói những câu lảm nhảm, không đầu đuôi. Con hãy nhớ năm xưa, nằm trong nôi. Mẹ kể mãi một chuyện xưa cổ tích. Cha cũng vậy, những khi con không thích lên giường nằm để ngủ giấc triền miên. Cha kể đi kể lại chuyện ông Tiên. Chuyện Tướng Cướp, Thạch Sanh, nhiều chuyện bịa.

Nếu cha mẹ rồi ít năng tắm rửa. Con cũng đừng bịt mũi, dang xa. Bởi khi xưa, mẹ phải gọi cả nhà. Mới tắm được cho con một lát. Con nghịch chơi, người dính đầy bụi cát. Mực lấm lem, tay chân bẩn như ma. Mẹ mới dội nước, con đã khóc la. Không chịu tắm,không chịu vào bồn rửa. Cha phải dỗ con hoài, con mới sửa. Mãi lớn khôn, mới đi tắm một mình.

Nếu mẹ cha rồi không hiểu văn minh. Máy móc mới đủ hình đủ kiểu. Cũng đừng cười chê ông bà già hủ lậu. Mà nên giảng cho cha mẹ cách dùng. Vì năm con một, hai tuổi, cái gì cũng lạ lùng. Cha mẹ phải cầm tay con, chỉ dẫn. Rồi lớn lên, cha dậy con cẩn thận. Đừng nghịch máy này, đừng đụng đến vật kia. Cha giảng cho con từng chút, từng ly. Cách mở radio, bật đèn, mở bếp, vặn tivi. Con đã nở những nụ cười hạnh phúc.

Nếu mẹ cha mà nhớ, quên tùy lúc. Đừng cằn nhằn cha mẹ ngu khờ. Biết bao lần con quên sách vở ở nhà. Cha phải chạy như bay về nhà lấy. Điều quan trọng là cha mẹ cần được thấy. Dáng hình con quanh quẩn đâu đây. Ngửi hơi con mà trong mắt cay cay. Con còn đó, tim cha đầy máu nóng.

Nếu mẹ cha quá già không muốn sống. Con hãy hiểu cho rồi tới lúc con cũng già. Sẽ tới hồi cuộc sống như trôi qua. Ý sống hết, mà chỉ còn tồn tại. Một cái cây khô, một cánh hoa vương vãi. Một bộ xương có hiểu biết vật vờ. Những kỷ niệm xưa đầy ắp, chan hòa. Trong ánh mắt, trong dấu tay run rẩy. Hơi thở ngập ngừng, âm thanh lẩy bẩy.

Không còn ham vui, chỉ còn chút tình yêu. Tình yêu con, yêu cháu thật nhiều. Óc chỉ thấy tên con và dáng dấp. Tim chỉ chứa hình con tấp nập. Dấu chân xưa chạy nhẩy tung tăng. Từng nốt muỗi đau, từng cơn nhức trong răng. Từng cơn sốt, mọc răng, đổi da, đổi thịt. Mẹ cha đã từng bao đêm quên mệt. Ngồi bên con, nghe hơi thở đều hòa. Dù cho con khó chịu, khóc la. Cha mẹ vẫn dấu yêu con trên hết. Và, bây giờ, khi tới gần cõi chết. Hành trang mang đi vẫn chỉ bóng hình con. Có chút hơi tàn, cha mẹ muốn giối giăng: Con hạnh phúc, con sướng vui bất tận.

6/ Tản văn:



http://img99.imageshack.us/img99/4817/mehien2de4.jpg

Mùa hè...
Con ngồi bên mẹ. Mẹ già rồi, miệng móm mém. Mẹ bảo con giã cho mẹ cối trầu.
- Mẹ à, làm gì còn răng mà nhai trầu nữa ?
- Thì cứ giã cho mẹ một cối đi. Mẹ ngậm lấy hơi.
Mẹ nói, nước miếng lại nhễu ra. Con đang mệt, tính thôi, nhưng nhìn mẹ như thế, lại thương, lại mủi lòng.
Mẹ già và thằng con đốn mạt. Con làm được gì cho mẹ đâu, suốt ngày bỏ học, đi chơi, đi đú, vũ trường các kiểu. Ngoảnh đi ngoảnh lại thế mà cũng tốt nghiệp được cái Phổ thông Trung học. Con cười khì khì bảo mẹ : " Đấy, hên xui thôi. Con tốt nghiệp được là nhờ có mẹ cả. " Ừ, thì cuối cùng con cũng nghĩ được cho mẹ một điều.

Mùa thu...
" Mùa này nhập học rồi. Đỗ được cái Đại học Quốc Gia là con giỏi lắm đấy. Học xong nhớ về với mẹ, con nhé. " Mẹ ngồi ăn nốt bát cơm. Nhệu nhạo vài miếng cho qua cơn đói.


http://img294.imageshack.us/img294/981/mehien3fb1.jpg

Thằng con trai chỉ cười cười cho qua chuyện. Khổ, nó có học hành gì đâu, có đỗ đạt gì đâu. Con lên thành phố chơi với lũ nhà giàu, nhờ tụi nó kiếm cho một chỗ ở. Sáng ngủ, tối đi vòng quanh Hà Nội, vòng quanh các New Century " đệ nhị, đệ tam " ... Thôi thì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Ngày xưa bố cũng chơi bời để giờ nằm nhà kêu oai oái vì thấp khớp. Bây giờ con thế là phải. Mẹ đừng trách. Âu cũng là cái số cả thôi.
Người ngoài cuộc nhìn vào : Thằng con này, có còn nhân tính không đây?

Mùa đông...
Chơi bời chán chê, mùa đông con về, mang theo cái thân bệnh tật...
Con mới 19 thôi.
Năm sau, 2 năm sau, 3 năm sau ... mà cũng có thể vài tháng nữa...
Con chết.
Mẹ già sẽ ở một mình...
Và có lẽ sau đấy vài tuần, mẹ cũng buồn mình mà chết theo.
Hương cải đầu mùa thơm ngai ngái.


http://img294.imageshack.us/img294/8483/mehien4mk6.jpg


[=========> Bổ sung bài viết <=========]





Đi lãnh nhuận bút với nhà văn Sơn Nam
Võ Ðắc Danh

Đúng hẹn để nhận bài cho báo Tết, tôi gọi điện thoại đến nhà truyền thống quận Gò Vấp xin gặp nhà văn Sơn Nam. Bên kia đầu dây, ông trả lời ngắn gọn: "Cho hẹn lại sáng mai nghen, sáng nay mắc ra báo Công an mượn tiền xài, hiện giờ trong túi chỉ còn mấy chục đồng". Tôi nói: "Vậy thì tía ở đó đợi con vào chở tía đi"

Khi ngồi sau lưng tôi trên chiếc honda, ông nói: " Sáng nay có mấy cô ký giả trẻ đến hạch hỏi mấy tiếng đồng hồ, trả lời muốn khan cổ họng mà chẳng có đồng xu. Nhưng kể ra cũng tội nghiệp tụi nó, sinh viên từ miền Tây mới ra trường, đang thử việc, không có bài hay thì chủ báo không ký hợp đồng nên ráng giúp tụi nó".

Phỏng vấn, kể chuyện là phải trả tiền, gần như đó là nguyên tắc của ông - một người cả đời chỉ sống bằng nghề viết - Bởi những tư liệu mà ông có được, ông cũng phải tốn tiền. Ông kể, ngày xưa, ngay từ khi ông viết Lịch sử khẩn hoang miền Nam, sở dĩ ông có nhiều tư liệu quý là vì mỗi khi vào thư viện ông đều tặng phong bì cho thủ thư nên họ rất nhiệt tình. Ông nói cụ Vương Hồng Sễn là một người rất sòng phẳng trong chuyện ấy, mỗi khi đến nhà cụ để đọc và ghi chép tài liệu hoặc nhờ cụ trả lời một vấn đề gì, trước khi ra về, dù ít hay nhiều cũng phải để lại một cái bao thư. Lý giải về sự sòng phẳng ấy, ông nói rằng, mình viết bài đăng báo được lãnh nhuận bút thì không lý do gì bắt người khác phải cung phụng cho mình.

Tôi kể cho ông nghe rằng cách nay ba ngày, trong một tham luận đọc tại hội nghị những người viết văn trẻ của thành phố, nhà thơ Nguyễn Trọng Tín có nói về một nền văn học ăn lương, đại khái rằng có những người suốt đời được trả lương để làm văn học nhưng chưa hẳn là có lợi cho văn chương. Nghe xong, ông cười có vẻ tâm đắc lắm: " Cái thằng đó hay à ! Nói vậy là nó loại trừ tôi ra".

Cả một đời gắn bó với văn chương, ông đã tự mình làm nên một Sơn Nam cho nền văn học - nói theo nghĩa một nền văn học ăn lương của Nguyễn Trọng Tín - bây giời, khi ông ngồi sau lưng tôi đi đến một Tòa báo để mượn tiền xài, tôi chợt ngậm ngùi nhận ra ông thiếu đi nhiều thứ so với một thường dân : Cả đời không biết chạy xe, dù là xe đạp, tròn năm mươi năm qua sống trên đất Sài Gòn, ông chỉ biết đi bộ, đi xe buýt, xích lô và xe honda ôm; không có nơi tiếp khách dù là khách của ông ngày nào cũng có; không có điện thoại, dù là điện thoại bàn; cho đến bây giờ, ông vẫn viết bằng tay hoặc chiếc máy chữ mini mà tuổi thọ của nó cũng xấp xỉ tuổi nghề của ông.

Hồi tòa soạn báo Văn nghệ thành phố còn ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, mỗi sáng ông từ nhà tới đó ngồi uống café trong căn-tin đến 9 giờ, đó là khoảng thời gian ông tiếp khách. Hay nói đúng hơn đó là văn phòng giao dịch của ông để giao và nhận bài cho các cơ quan báo chí trong nước, và cả nước ngoài. Khi báo Văn nghệ dời đi cũng là lúc ông bỏ nhà đi lang thang vì chuyện cơm không lành, canh không ngọt. Từ đó văn phòng giao dịch của ông dời về quán café trong khuôn viên nhà truyền thống quận Gò Vấp, gần chục năm nay. Bây giờ ông đã trở về với mái ấm gia đình, nhưng địa chỉ văn hóa của ông vẫn còn chỗ cũ. Mỗi sáng, lúc 7 giờ 30, ông lên xe honda ôm từ Bình Thạnh ra Gò Vấp cũng giống như người ta đi đến cơ quan. Ơ đó có một cô nhân viên thư viện chuyên làm công việc chữa bản thảo cho những bài viết của ông, bởi do tuổi cao , mắt mờ, tay rung nên ông hay gõ sai nốt chữ. Ai muốn gặp ông qua điện thoại thì cứ gọi vào số máy của nhà truyền thống, nhân viên ở đây rất vui vẻ hỏi người gọi tên gì, ở đâu để chạy ra sân báo cho ông. Ơ đây, ngoài những biên tập viên của các cơ quan báo chí tìm đến ông đặt bài, nhận bài, trả nhuận bút, còn có những sinh viên báo chí, du lịch, ngữ văn, những nghiên cứu sinh đang làm luận án Tiến sĩ cũng tìm đến ông như để tra cứu một quyển từ điển sống, một kho địa chí văn hóa sài Gòn và đồng bằng Nam bộ.

Tôi mạo muội hỏi ông: " Nhà xuất bản Trẻ mua đứt bản quyền của tía bao nhiêu ?". Ông nói: " Đây là chuyện tế nhị mà cả hai bên đã cam kết rằng không ai được nói ra". Rồi ông lại cười giòn và tấm tắt khen bài tham luận của nhà thơ Nguyễn Trọng Tín mà tôi vừa kể với ông.

Đến Tòa soạn báo Công an, ông có vẻ thất vọng khi biết anh Trần Tử Văn đi vắng. Ra trước sân, ông trầm ngâm đứng lặng. Tôi hỏi ông cần khoảng bao nhiêu, ông nói khẽ: " Càng nhiều càng tốt, mấy đứa nhỏ đang gặp khó khăn, chứ bản thân tôi thì hề hấn gì". Tôi đang nghĩ đến số nhuận bút bên Thời báo Kinh tế sài Gòn, nhưng khi nghe ông nói " mấy đứa nhỏ đang gặp khó khăn" thì tôi biết ngay rằng nhuận bút của một vài bài báo sẽ chẳng có nghĩa lý chi, phận mình mới chân ướt chân ráo lên Sài Gòn, cái nhà còn chưa có ở . . . Nhìn ông già còm cõi, tem hem, môi rung, mắt mờ, chân yếu trong cơn tuyệt vọng trước nợ áo cơm giữa chốn phồn hoa đô hội mà tôi muốn rơi nước mắt. Một nhà văn bậc thầy, một tinh hoa của dân tộc mà thân phận như thế nầy sao ? Lòng tôi xót xa tự vấn.

Trong lúc đầu óc tôi đang bối rối thì ông già giục đi. Tôi hỏi đi đâu, ông bảo sang Hãng phim Giải phóng. Đi dọc đường, ông nói rằng ở bên đó ông còn mấy ngàn đô-la nhưng không biết nó đã về tới bên nây chưa hay là còn bên Mỹ. Tôi chở ông đi như sự cầu may. Nhưng thật bất ngờ, khi vừa dừng trước cổng thì anh Trần Khải Hoàng, phụ trách tài vụ vừa dắt xe ra, gặp ông, anh mừng rỡ: " Trời ơi, tía ! Vô đây con gởi tiền, con đợi tía mấy ngày nay !" Anh Hoàng cho biết, một đạo diễn người Mỹ gốc Việt đã chuyển thể truyện ngắn "Mùa len trâu" của ông thành phim truyện nhựa, họ trả nhuận bút cho ông ba ngàn đô-la, tạm thời họ ứng trước cho ông một ngàn, số còn lại sẽ trả sau khi phim phát hành hai tháng. Anh Hoàng nhờ tôi chuyển chứng từ cho anh Phạm Sĩ Sáu ở nhà xuất bản Trẻ, bởi về mặt thủ tục, số tiền nầy phải trả cho nhà xuất bản Trẻ vì bên ấy đã mua đứt bản quyền của nhà văn Sơn Nam.

Trên đường đi, ông Sơn Nam tỏ ra phấn chấn: " Thằng xuất bản Trẻ nầy chơi ngon, bản quyền tôi đã bán cho nó rồi, vậy mà số tiền nầy nó vẫn để cho tôi hưởng trọn, không lấy tiền cò mặc dù hợp đồng do nó ký"

Như ngẫm nghĩ điều gì một lúc rồi ông nói: "Tôi còn mấy chuyện hây lắm, nhưng về già mới viết được". Nghe ông nói thế, tôi bật cười. Nhưng rồi tôi bổng giật mình chợt nghĩ : ông có lẫm cẫm rồi chăng ? Gần tám mươi tuổi rồi mà ông còn nghĩ "về già mới viết". Khi dừng lại một vỉa hè để uống café, tôi nhìn kỹ ông và nhận ra làn da ông hơi mọng nước, đôi môi rung rẩy nhiều hơn. Nhớ lại hồi sáng tôi phải dìu ông đi từng bước chậm xuống cầu thang ở báo Công an thành phố. Lạy trời và lạy trời . . . !


http://img151.imageshack.us/img151/2135/sonnamanhyw6.jpg


NGÀN THU TIỄN BIỆT

Trong tiếng nấc nghẹn, con gái nhà văn Sơn Nam cho biết, ông đã đi vào cõi vĩnh hằng vào trưa ngày 13/8. Vậy là từ nay, văn đàn miền Nam vắng bóng dáng hình quen thuộc của 'Ông già Nam Bộ'.

ThichNuDiuHien
18-08-2008, 13:40
Sân trường con học lớp 10 nơi ngày xưa cha học.


http://img528.imageshack.us/img528/3113/xuanay2es8.jpg

http://img237.imageshack.us/img237/6294/xuanayqx4.jpg

http://img135.imageshack.us/img135/5839/xuanay1sb6.jpg

http://img237.imageshack.us/img237/6103/xuanay3xx1.jpg


Đành nhủ lòng thôi giã từ kỷ niệm
Cho qua bao năm mộng buồn quên dấu

TNDH
04-09-2008, 09:13
Đưa cay:

VIỆT HÁN ĐỀ HUỀ


http://img84.imageshack.us/img84/8919/lethuongcotj9.jpg

Sao không là Thượng Kỳ (thuần Hán) hoặc Kéo Cờ (thuần Việt), mà nửa nạc (Hán: Thượng) nửa xương (Việt: Cờ) thế nài :no:
Thui thì đã có "tiền lệ" ta cứ ung dung mà xài:
- Mời các Cùng chí, chỉnh trang quần áo chuẩn bị làm lễ chào Quốc Cờ và hát Nước Ca... :yes:

edavn
04-09-2008, 09:35
Chắc cũng giống như ta hay dùng "thượng cẳng chân hạ cẳng tay" chứ không dùng "thượng túc hạ thủ" có lẽ từ "thượng" đã là từ việt rồi:w00t:

dly
04-09-2008, 09:49
Gớm ! chú này rắc rối. Cũng như trong L vẫn dùng chữ "dương cờ" đấy thôi

TNDH
04-09-2008, 13:48
VƯƠNG TRỌNG KỂ CHUYỆN NÓI LÁI


Tên thật: Vương Đình Trọng
Sinh năm: 1943
Nơi sinh: Đô Lương - Nghệ An
Bút danh: Vương Trọng
Thể loại: thơ, truyện ngắn

Các tác phẩm:
- Thơ người ra trận (1972)
- Khoảng trời quê hương (1979)
- Những ngày xa (1986)
- Về thôi nàng Vọng phu (1991)
- Đảo chìm (1994)
- Hồn quê (1994)
- Mèo đi câu (1996)
- Cánh chim Phay Khắt (1983
- Voi và hổ (1982)
- Người săn mèo rừng ( 1990)
- Chàng mắt nai (1990).

Giải thưởng văn chương:
- Giải thưởng văn chương Bộ Quốc phòng (1990) với tập thơ Những ngày xa
- Giải thưởng văn chương Bộ Quốc phòng (1994) với tập Đảo chìm

Nói lái là trò chơi chữ dân gian quen thuộc của người Việt Nam. Từ Bắc chí Nam, không mấy ai không hiểu cách nói đầu tiên là tiền đâu, hiện đại là hại điện... Tuy vậy, những người thích nói lái không phải chia đều cho mọi vùng quê, và theo ý kiến của nhiều người, vùng Nghệ Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh) trò chơi này được "phổ cập toàn dân" và là nơi có nhiều người khá "sành nghề".

…Cách nói lái của người miền Bắc khác miền Trung và miền Nam, nhưng đã là người sành nói lái thì thành thạo cách sử dụng của mọi miền, hơn nữa họ còn biết thêm các trò hoán vị chữ và dấu khi cần thiết để diễn đạt được nội dung theo ý muốn. Ví như hai chữ Đèo Ngang, người miền Bắc lái là ngàng đeo, người miền Trung lái là đàng ngheo, nhưng họ liền hoán vị dấu để có được đang nghèo!

Nói về tính phổ cập của trò nói lái trong cuộc sống hàng ngày ở vùng Nghệ Tĩnh, người ta thường kể câu chuyện xảy ra trong một "đám cưới đời sống mới" cách đây hơn nửa thế kỷ. Một ông già được mời dự một đám cưới đời sống mới, nghĩa là chỉ có trà thuốc, trong khi ông già cứ đinh ninh đã là đám cưới thì phải có ăn cỗ.

Uống nước mãi vẫn chưa thấy được "ngồi mâm", ông già đã bực thì cô tiếp tân lại tới rót nước vào chén ông và nói lịch sự: "Mời ông xơi trà ạ". Ông già đón lấy chén nước: "Ừ, trà, trà tận trưa"! Nếu người vùng khác thì chỉ nghĩ ông nói rằng sẽ uống trà cho đến trưa, nhưng là người Nghệ Tĩnh thì ai cũng hiểu là ông đang dùng nói lái để phản ứng lại. Trà tận trưa nghĩa là Trừa tận tra, tức là chừa đến tận già, không bao giờ còn đi dự kiểu đám cưới như thế này nữa!

Do ý thức nói lái thường trực ở mọi người, nên nói năng, viết lách và đặc biệt là đặt tên con cái cũng phải cân nhắc chuyện này. Nguyễn Bá là một họ lớn của vùng mà cả họ, con trai không ai dám đặt tên là Nhàn vì Nguyễn Bá Nhàn là Nguyễn Bán Nhà là điều phải tránh.

Các cô gái người Bắc làm dâu xứ Nghệ nói rằng, tiếng Nghệ dù khó nhưng chỉ cần chung sống với chồng vài năm là những từ cơ bản có thể hiểu được, còn chuyện nói lái thì dù sống ở quê chồng hàng chục năm, vẫn cứ là… ngơ ngác.

Chị Hải, người Bắc Ninh, lấy anh Sơn người Nghệ An và chị đã về ở quê chồng dạy học trong nhiều năm trời. Một kỳ nghỉ hè chị đem đứa con trai kháu khỉnh, có tên là Hướng về thăm ông bà ngoại. Trong buổi trò chuyện với bố mẹ và bà con hàng xóm, chị kể chuyện xuất xứ về cái tên của đứa con trai. Khi chị sinh con, anh Sơn, chồng chị đang công tác ở nước ngoài nên chị đã tự đặt tên con để làm giấy khai sinh. Chị thấy đàn ông tên Huy có nhiều người tài, nên đặt tên con là Nguyễn Đình Huy. Giấy khai sinh con làm xong chưa được một tháng thì chồng về phép, biết chuyện, anh bất bình:
- Sao mình lại đặt tên con thế này, không sợ làng xóm chê cười cho à?
Chị thản nhiên:
- Có gì thế anh? Em thấy tên Huy cũng hay, hơn nữa không chạm tên những bậc cao niên trong họ tộc...
- Không phải chuyện ấy, mà là thế này...
Rồi anh cặn kẽ giải thích cho chị. Đó là chuyện nói lái. Bố đã tên là Sơn, mà con tên Huy, thế thì Sơn Huy thành Suy Hơn. Gia đình nào cũng muốn thịnh vượng, phát đạt, chứ ai muốn suy bao giờ, mà ở đây lại là suy hơn! Đó là kết hợp với tên bố, còn kết hợp với tên mẹ thì Hải Huy thành Hủy Hai, tức là cả mẹ con đều khó tồn tại...

Chị nghe anh giải thích mà thấy "khủng khiếp" cho việc chọn tên con của mình. Một lúc sau, chị nói:
- Thế thì anh đặt tên con đi, tên gì cũng được nhưng em muốn con chúng ta có vần H như tên em.
Anh Sơn ngồi trầm ngâm một lúc, rồi nói:
- Anh nghĩ ra rồi, tên con là Hướng, vừa có vần H theo yêu cầu của em, vừa có ý nghĩa: Sơn Hướng là Sướng Hơn! Đó là kết hợp với tên anh, còn với tên em thì Hải Hướng là Hưởng Hái, tức là chúng ta hưởng thành quả lao động của chúng mình gặt hái được!

Sau khi nghe con gái kể chuyện, bố chị Hải thốt lên:
- Làm sao người ta lại nghĩ được sâu xa như thế! Con nhớ từ lần sau, đừng tự tiện đặt tên cháu nữa nhé!
- Không dám nữa đâu bố ạ, vì "nghề nói lái", con còn dốt lắm!

Hồi kháng chiến chống Pháp, xã tôi có dựng một vở kịch kể chuyện một cô dân quân bắt tù binh Pháp, phần lớn thời gian là cuộc nói chuyện giữa cô gái với tên tù binh qua lời một người phiên dịch. Trong xã có một thanh niên da trắng, râu quai nón, to cao, đóng lính Pháp thật giống, nhưng khốn nỗi cả xã không ai biết tiếng Pháp (những người biết thì đã đi xa), thì phải để tên tù binh nói tiếng thế nào đây? May có người nghĩ ra một cách rất hữu hiệu là cho tên lính nói lái một số câu sao cho có những âm giống như tiếng Pháp. Thế là, sau khi nghe cô gái hỏi:
- Anh đến nước tôi từ khi nào?
Tên tù binh trả lời:
- Mon nghít/đơ ca xanh/ri măng/quýt xơ măng/công soa.
Và được phiên dịch:
- Tôi chỉ đến đất nước này một thời gian ngắn thì bị bắt!
Những người quê Bắc tản cư sống ở xã tôi khen diễn viên nói tiếng Tây hay lắm, còn những người sành nói lái thì ôm bụng cười, vì cái câu trên kia có nghĩa là:"Mít ngon/đánh cả xơ/răng mi/quăng xơ mít/qua sông?"!

…Đó là chuyện nói lái trên quê hướng xứ Nghệ. Nhưng người Nghệ không chỉ "thực thi" nói lái trên quê mình, mà đi đến đâu cũng mang theo trò này giống như nhà thơ Nguyễn Công Trứ ngày xưa nói về thơ: "Trời đất cho ta một cái tài/ Dắt lưng dành để tháng ngày chơi". Trong thực tế, tỉ lệ người Nghệ trong các cơ quan vụ, viện, báo chí... là rất đáng kể, điển hình như tạp chí Văn nghệ Quân đội, một thời được mệnh danh là "văn đội quân Nghệ". Và ở đây có lắm ông "đồ Nghệ" thích chơi chữ nói chung và sành nghề nói lái nói riêng.

Xuân Thiều rất khoái câu nói lái mà Vương Trọng tặng mình: "Chả lo gì, chỉ lo già", vì rất đúng với hoàn cảnh của mình. Kinh tế sung túc, con cái trưởng thành, làm ăn phát đạt... chỉ có cái già cứ xồng xộc kéo đến, làm cho đầu tóc lơ phơ vài sợi, chân tay chậm chạp.

Vì khoái câu nói lái trên kia, nên trong một bài báo, Xuân Thiều đem nó ra làm vế thách đối và trong một thời gian ngắn, nhận được khá nhiều vế đối, và vế đối hay nhất cũng của một tác giả xứ Nghệ! Trước khi trình vế đối của mình, tác giả đó viết: "Đối với các bác giàu có, chỉ muốn hưởng thụ thì: Chả lo gì, chỉ lo già, còn chúng em nghèo khổ, quanh năm thiếu thốn thì Nỏ cần chi, chỉ cần no, nên em đối:
Chả lo gì, chỉ lo già
Nỏ cần chi, chỉ cần no".

Nguyễn Trọng Oánh xem vế đối gật gù: "Giá như giải quyết được vấn đề trắc bằng, thì đây là một vế đối tuyệt tác!".
Lại như lần cơ quan liên hoan mừng nhà văn Hồ Phương được phong quân hàm thiếu tướng. Khi được phong cấp tướng, nhà văn Hồ Phương được nhận tiêu chuẩn nhà mới nên nhường lại căn hộ cũ của mình cho một sĩ quan cấp tá. Nhân chuyện này, Vương Trọng bèn nêu một vế thách đối: "Nhà cấp tướng nhường cấp tá".
Không những Xuân Thiều, Nguyễn Trọng Oánh, mà Phạm Ngọc Cảnh, Nam Hà, Anh Ngọc, Lê Thành Nghị, Doãn Trung... là các "đồ Nghệ" rất sành câu đối và nói lái, vắt óc suy nghĩ mà trong gần một năm trời vẫn chưa có vế đối nào được chấp nhận. Bản thân Vương Trọng cũng bí. Đúng là "Xuất đối dĩ, đối đối nan..." như các cụ ta ngày xưa đã nói. Thế là tết Nguyên đán năm đó, nhà Vương Trọng đốt pháo mừng xuân (dạo đó chưa cấm đốt pháo), không may một quả pháo đùng văng ra nổ làm vỡ bình hoa đào. Thế là Vương trọng thốt lên: "Pháo Bình Đà phá bình đào" rồi! Không ngờ, đó là một vế đối khá chuẩn:
Nhà cấp tướng nhường cấp tá
Pháo Bình Đà phá bình đào.
Các bạn lưu ý rằng, trước đây Bình Đà (Hà Tây) là địa phương làm pháo nổi tiếng nhất nước.
Thì ra "nghề nói lái" cũng lắm công phu, và muốn sành được không phải chuyện dễ, phải không các bạn? :yes:

nino
05-09-2008, 07:46
Đưa cay:

VIỆT HÁN ĐỀ HUỀ


http://img84.imageshack.us/img84/8919/lethuongcotj9.jpg

Sao không là Thượng Kỳ (thuần Hán) hoặc Kéo Cờ (thuần Việt), mà nửa nạc (Hán: Thượng) nửa xương (Việt: Cờ) thế nài :no:
Thui thì đã có "tiền lệ" ta cứ ung dung mà xài:
- Mời các Cùng chí, chỉnh trang quần áo chuẩn bị làm lễ chào Quốc Cờ và hát Nước Ca... :yes:

he he... bác Thích này thâm quá ta :D... em đọc bài đó mấy lầm mà chẳng để ý... chắc tại chưa đủ nội công :D :D

TNDH
05-09-2008, 09:18
Sáng ngồi nhâm nhi ly cà phê cóc.
Một tiểu thư đi học, có người đi theo xách cặp.
Người xách cặp chỉ hơn tiểu thư vài ba tuổi, vóc bé nhỏ; da ngăm đen tạng dân khơ-me Trà Vinh, mặt mũi nom khắc khổ.
Từ đâu đó trong vô thức, lời một bài hát vọng về:
CON Ở MIỀN NAM...

http://img65.imageshack.us/img65/5987/conoty0.jpg

Nhân Tâm
05-09-2008, 16:28
he he... bác Thích này thâm quá ta :D... em đọc bài đó mấy lầm mà chẳng để ý... chắc tại chưa đủ nội công :D :D bác dzô L cũng lâu mà em tưởng bác. Bác nói dzậy khác nào khen người mẫu đẹp :D

TNDH
16-09-2008, 11:04
CÁM ƠN THÈNG CHỘM

Hùi bé đọc trong quốc văn có chiện, túm tét như ri: Một thèng ăn Chộm bị chủ nhà quả tó và phang cho mấy hèo. Chộm ta vừa đau vừa sợ, liền lăn đùng bất tỉnh.

Tới phiên gia chủ thót tim vì nghĩ mình đánh nó chết, thế là cả nhà vội xúm xít rinh Chộm vào nhà, cho nó nèm giường êm; pha nước ấm lau mày lau mẹt; cạo gió, nấu cháo… cho nó. Thấy Chộm tỉnh dậy cả nhà mừng hết lớn, tặng tiền; quần áo mới cho Chộm và kiu “taxi” đưa Chộm dzìa tận nhà.

Tuần rùi, tớ mất cái túi xách trong đó có toàn bộ giấy tờ tùy thân, một ít xiền, máy ảnh số, một hộp bánh Trung Thu, sách học, ATM, USB, Zippo và mấy thứ linh tinh khác.

Chờ gần một tuần thì Chộm phôn đến “mời” ra địa điểm XYZ nhận lại túi xách.

Kiểm tra thì giấy tờ tùy thân đầy đủ, còn lại cái gì ăn được, bán được đã “vĩnh viễn” ra đi.

Túm lại:
Chân thành cám ơn bác Chộm bởi lẽ:
• Bác không đòi xiền chuộc. :yes:
• Bác có trái tim và cả bộ đồ lòng nhân ái, thấu hỉu nỗi vất vả của tớ nếu phải đi làm lại giấy tờ nên đã trả lại. (Thay vì quăng mẹ nó xuống cống rãnh cho rảnh)

Thông qua diễn đàn nài (mong bác biết tiếng và vào đọc) tớ thực lòng cám ơn và cầu chúc bác và gia quyến hạnh phúc.

Nhân đây kèm theo một chiện ngắn để quý bác xem chơi:



http://img261.imageshack.us/img261/6156/blacksheeptx2.jpg
CON CỪU ĐEN
Italo Calvino
Hoàng Ngọc-Tuấn - dịch


http://img329.imageshack.us/img329/8866/italomg8.jpg

Italo Calvino (1923–1985) là nhà văn hậu hiện đại người Ý.
Ông sinh tại Santiago de Las Vegas (Cuba) ngày 15 tháng 10 năm 1923. Ông là con của hai nhà thực vật học Mario Calvino và Evelina Mameli (cháu của Goffredo Mameli) và em trai của Floriano Calvino, nhà địa chất học nổi tiếng. Khi còn trẻ, ông chuyển đến quê hương nước Ý và ở đấy gần suốt đời. Italo Calvino qua đời ngày 19 tháng 9 năm 1985.



Ở một xứ nọ, mọi người đều là kẻ trộm.

Ban đêm, mọi người đều rời nhà với chùm chìa khoá cùng chiếc đèn lồng có vải che, và đến nhà một người láng giềng để ăn trộm. Họ trở về lúc rạng đông, với nhiều của cải, và thấy nhà của chính họ đã bị mất trộm.

Vì thế, mọi người vui vẻ sống với nhau, và chẳng ai thiệt thòi gì, bởi kẻ này ăn trộm của kẻ khác, kẻ khác lại ăn trộm của kẻ khác nữa, và cứ tiếp tục như thế đến khi kẻ cuối cùng ăn trộm của kẻ đầu tiên. Việc mua bán ở xứ ấy tất nhiên là việc người mua và kẻ bán lường gạt nhau. Chính phủ là một tổ chức tội phạm chuyên ăn trộm của nhân dân, và nhân dân chỉ chăm lo ăn trộm của chính phủ. Do đó, cuộc sống rất thoải mái, chẳng có ai giàu và chẳng có ai nghèo.

Một ngày nọ, chẳng biết vì sao một người đàn ông trong sạch lại đến sống ở xứ ấy. Ban đêm, thay vì ra đi với bao tải và chiếc đèn lồng, anh ta ở nhà hút thuốc lá và đọc tiểu thuyết.
Kẻ trộm đến, thấy đèn sáng, nên không vào nhà.

Tình trạng này diễn ra trong một thời gian ngắn, và mọi người buộc lòng phải giải thích cho anh ta hiểu rằng ngay cả nếu anh muốn sống mà không làm việc thì cũng không có lý do gì anh lại ngăn cản những người khác làm việc. Mỗi đêm anh ở nhà nghĩa là ngày hôm sau một gia đình nào đó chẳng có cái gì để ăn.

Người đàn ông trong sạch khó lòng phản đối lý lẽ đó. Ban đêm, anh ta ra đi và sáng hôm sau anh ta về nhà giống như họ, nhưng anh ta không ăn trộm. Anh ta trong sạch, và bạn không thể làm gì khác để thay đổi bản tính ấy. Anh ta đi đến tận cây cầu và đứng nhìn nước trôi bên dưới. Khi về nhà, anh ta thấy mình đã bị mất trộm.

Chưa đến một tuần lễ, người đàn ông trong sạch không còn một xu dính túi, không còn gì để ăn và căn nhà trống rỗng. Nhưng đó chẳng phải là vấn đề, vì đó là lỗi của chính anh ta; không, vấn đề là thái độ của anh ta đã làm mọi sự đảo lộn. Bởi anh ta để những kẻ khác ăn trộm tất cả của cải của anh ta, mà anh ta lại không ăn trộm của ai cả, cho nên luôn luôn có kẻ về nhà vào lúc rạng đông và thấy nhà mình còn nguyên vẹn: đáng lẽ anh ta phải ăn trộm nhà ấy. Rốt cuộc, sau một thời gian ngắn, những kẻ không bị mất trộm thấy mình giàu có hơn người khác và không còn muốn đi ăn trộm. Tệ hại hơn nữa, những kẻ đến nhà của người đàn ông trong sạch để ăn trộm thấy nhà luôn luôn trống rỗng, do đó họ trở thành nghèo đói.

Trong lúc ấy, những kẻ đã trở nên giàu có lại nhiễm cái thói quen của người đàn ông trong sạch là đi đến cây cầu vào mỗi đêm để nhìn nước trôi bên dưới. Điều này làm sự rối loạn càng tăng thêm, bởi nó khiến cho nhiều kẻ khác trở nên giàu có và nhiều kẻ khác trở nên nghèo đói.

Thế rồi, những kẻ giàu có nhận ra rằng nếu đêm nào họ cũng đến cầu ngắm nước chảy thì chẳng mấy chốc họ lại trở nên nghèo. Và họ nghĩ: "Hãy trả lương để những đứa nghèo đi ăn trộm cho mình". Rồi họ viết hợp đồng, quy định mức lương, tính huê hồng theo phần trăm: tất nhiên họ vẫn còn là những kẻ trộm, và họ vẫn muốn lừa đảo kẻ khác. Và điều phải xảy ra là kẻ giàu càng giàu thêm và kẻ nghèo càng nghèo thêm.

Một số kẻ giàu trở nên quá sức giàu đến mức họ thấy không cần ăn trộm hay thuê những kẻ khác ăn trộm cho mình để mình được tiếp tục giàu nữa. Nhưng nếu họ thôi ăn trộm, họ sẽ trở nên nghèo, bởi những kẻ nghèo ăn trộm của họ. Vì thế, họ trả lương để những kẻ nghèo nhất trong đám nghèo canh giữ của cải của họ khỏi bị bọn nghèo lấy trộm, và qua đó họ hình thành lực lượng công an và xây dựng những nhà tù.

Nói tóm lại, chỉ trong vòng vài năm sau khi người đàn ông trong sạch xuất hiện, người ta không còn nói đến chuyện ăn trộm và mất trộm, mà nói đến chuyện kẻ giàu và người nghèo; nhưng họ vẫn còn là những kẻ trộm.

Con người trong sạch duy nhất chính là con người lúc đầu ấy, nhưng anh ta đã chết từ sớm, vì đói.


Dịch từ bản Anh ngữ: “The black sheep”,
trong Italo Calvino, Numbers in the Dark [Những con số trong bóng tối], trans. Tim Parks (London: Vintage, 1996)
Lời người dịch: Italo Calvino hoàn tất truyện trên đây vào ngày 30/07/1944 -- lúc ông mới được 21 tuổi -- và chưa bao giờ xuất bản. Mãi đến năm 1993, vợ ông, Esther Calvino, mới cho phép xuất bản lần đầu trong tập truyện Prima che tu dica 'Pronto' (Milano: Arnoldo Mondadori Editore, 1993)

TNDH
05-10-2008, 12:03
Canh rau đắng:

http://img376.imageshack.us/img376/6493/vodacdanhho4eg4.jpg


Anh Lê Công Hùng, Giám đốc Trung tâm nuôi dưỡng người già & tàn tật Thạnh Lộc cho biết, ở đây có gần ba trăm cụ già đến từ mọi miền đất nước, khó mà biết được sự thật cuộc đời của các cụ ra sao vì trong hồ sơ chỉ khai một cách chung chung rằng hoàn cảnh neo đơn, không nơi nương tựa, không có người thân, tứ cố vô thân. Thế nhưng, qua những câu chuyện tâm tình giữa các cụ mà nhân viên ở đây vô tình nghe được thì đa số các cụ từng có một mái ấm gia đình, có con cháu hẳn hoi nhưng vì bị chúng ngược đãi đến mức phải ra đi, sống lang thang nơi đầu đường xó chợ, đến khi sức cùng lực kiệt, chính quyền địa phương gởi vào đây.
*
Ông Huỳnh Sương, 76 tuổi, cán bộ hưu trí ở quận 5 đã vào đây sống hơn mười năm. Ban đầu, ông khai là người tứ cố vô thân, không nơi nương tựa. Nhưng rồi những tâm sự của ông với những người bạn già vào những chiều, những đêm trên băng đá, người ta mới biết được rằng cụ đã có những người con thành đạt, thậm chí đang có chức có quyền. Khi chúng tôi bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ thì nước mắt cụ rưng rưng và bộc bạch những lời tâm sự, rằng cụ có tất cả sáu người con, một là thượng tá cảnh sát giao thông, một là trung tá săn bắt cướp, một đang dạy tin học tại một trung tâm lớn trên đường Pastuer, một là cán bộ toà án quận, một là trung úy cảnh sát hành chánh, một là nhân viên bán vật liệu xây dựng. Hỏi vì sao cụ lại vào đây, cụ ngập ngừng nói: “Tôi không muốn làm phiền con cái”. Hỏi vì sao cụ cố giấu nhân thân, cụ nói: “Sợ ảnh hưởng đến công tác của các con, sợ mấy đứa cháu nội, cháu ngoại biết được, chúng nó buồn phiền, nghĩ xấu về cha mẹ nó”.
Chỉ có vậy. Chúng tôi cố hỏi thêm về chuyện quan hệ gia đình, ông chỉ cúi đầu im lặng. Hỏi quẩn hỏi quanh chuyện nhà cửa, ông lại vô tình hé ra chi tiết: cách nay vài tháng, có một người khách đến rước ông về phường để làm thủ tục chuyển quyền sử dụng căn nhà thuộc sở hữu của ông nhưng do con gái ông đứng ra sang bán. Ông nói: “ Miễn sao nó nuôi con cái ăn học đàng hoàng là được rồi, tôi đâu cần gì nữa”.
Anh Lê Công Hùng cho biết, có lần anh kể về những người con của ông Sương trong một phóng sự truyền hình, sau đó anh nhận được những cú điện thoại với những lời răng đe, hăm doạ.
Khác với ông Sương, ông Huỳnh Văn Mỹ, 83 tuổi, vừa nhập trại cách đây hai năm đã không chút ngần ngại khi kể lại số phận của mình. Vợ chồng ông sống với con gái và ba đứa cháu ngoại trong một con hẻm trên đường Đề Thám, quận Nhất. Khi người con rể ông ở bên Mỹ gởi tiền về để xây nhà thì con gái ông bảo ông sang tên, ông nghĩ trước sau gì thì cũng là của con nên ông không ngần ngại ký giấy sang tên cho con gái. Nào ngờ nhà vừa xây xong vài tháng, con gái ông chết vì bệnh ung thư, lập tức ba đứa cháu ngoại ném cho ông hai ngàn đô-la rồi đuổi vợ chồng ông ra đường. Không đi thì chúng bỏ đói, mắng chửi, đánh đập và lăng nhục. Cùng đường, vợ chồng ông cầm hai ngàn đô-la qua quận Hai thuê nhà trọ. Ơ được vài năm thì vợ ông lâm bệnh, tiền bạc không còn. Không chịu đựng nổi đắng cay, cả hai vợ chồng tự tử. Nhưng ông được cứu sống, còn vợ ông thì vĩnh viễn ra đi. Ông về nhờ chùa Thiên Hậu ở cạnh ngôi nhà cũ lo hỏa táng cho vợ ông. Xong, ông xin vào trung tâm dưỡng lão. Ông ngậm ngùi nói: “ Không hiểu sao, cả ba đứa cháu ngoại tôi đều có học, thậm chí học rất giỏi, một đứa vào đại học, hai đứa đang học cuối cấp ba mà sao chúng nó lại xử sự với ông bà như vậy !”
Anh Hùng cho tôi xem bộ hồ sơ của một người quá cố, có lẽ đây là một hồ sơ duy nhất thể hiện khá rõ về tấn thảm kịch của một con người: Ông Nguyễn Đình Chiến, sinh năm 1919 ở phường 26 quận Bình Thạnh, sau khi bán căn nhà mấy chục lượng vàng để chia thừa kế cho năm người con, ba gái hai trai, cứ tưởng họ sẽ thay phiên nhau nuôi dưỡng ông như đã hứa. Nhưng rồi vài tháng sau, cả năm người con cứ đùn qua đẩy lại. Buồn chán, ông lang thang ra hè phố làm kẽ ăn mày. Chính quyền địa phương đã năm lần mời họ đến lập biên bản, buộc phải có trách nhiệm nuôi dưỡng người cha. Nhưng rồi đâu lại vào đấy. Một đêm nọ, người ta phát hiện ông Chiến nằm ngất xỉu trên vĩa hè vì đói khát. Chính quyền địa phương đưa ông đi cấp cứu rồi làm thủ tục gởi ông lên Trung tâm Thạnh Lộc. Thế nhưng gần hai tháng sau, khi ông Chiến qua đời, cả năm người con của ông kéo lên khóc lóc và tranh giành tử thi để đem về mai táng. Trong lúc giành nhau, có một người khôn ranh hơn đã đưa ra giấy chứng nhận của chính quyền địa phương rằng anh ta là con ruột nên được ưu tiên nhận xác cha. Lúc mang ra taxi, do thi hài ông Chiến đã cứng nên người thừa ra ngoài gần một nửa, người con trai ấy đã vội vã đến mức không ngần ngại bẻ quắp đôi chân người cha ém vào, đóng sầm cửa lại và cho xe nổ máy. Cả Trung tâm nhìn theo, ai cũng lắc đầu rơi nước mắt. Một người con trai còn lại gặng hỏi anh Hùng rằng: “ Lúc cha tôi vào đây, nghe nói có một doanh nghiệp cho hai triệu đồng, giờ còn được bao nhiêu ông trả lại cho tôi !”
Anh Hùng nói rằng, trên ba trăm cụ già ở đây là trên ba trăm câu chuyện đời đầy bi kịch nếu như có máy ghi âm đặt bên các băng ghế đá để thu lại những dòng tâm sự của các cụ vào những buổi chiều. Một trong những câu chuyện mà anh vô tình nghe rất nhiều lần là ông Trương Văn Minh, 80 mươi tuổi, đến từ Tân Tạo,Bình Chánh. Cả đời ông sống bằng nghề nông lam lũ, nuôi con lớn khôn bằng cây lúa cọng rau. Thế rồi đùng một cái, các khu công nghiệp mọc lên, đất đai sốt giá, làng xóm ùn ùn thi nhau bán đất, các con ông cũng bị lăn tròn vào cơn sốt ấy. Chúng kéo nhau thúc bách ông một hai phải bán. Bán xong, chúng ấu đả chửi bới, đánh đập nhau để tranh giành quyền lợi. Xong, mỗi đứa ném cho ông vài trăm ngàn đồng rồi đẩy ông vào đây. Hai năm sau, ông lâm bệnh nặng và qua đời trong bệnh viện.
Hỏi, gần năm năm làm Giám đốc Trung tâm, anh tâm đắc những gì về chuyện thế thái nhân tình ? Anh Lê Công Hùng nói, tâm đắc thì nhiều lắm, mỗi một ông cụ, bà cụ đến đây đều mang theo những thước phim đời đầy nước mắt. Nhưng điều day dứt hàng năm là những ngày tết đến, khi đón giao thừa, Trung tâm tổ chức lửa trại cho các cụ quây quần lại với nhau, nghe Chủ tịch nước đọc thư chúc mừng năm mới, chúc cho mỗi gia đình được no ấm, yên vui và hạnh phúc. Lúc ấy, trên gương mặt gìa nua, nhăn nheo của các cụ ánh lên hai dòng nước mắt lăn dài. Lúc ấy, mấy chục anh chị em của Trung tâm dù cố kềm chế cũng phải khóc theo.
Nghịch lý thay – anh Hùng nói – chính giờ phút ấy lại là niềm vui trọn vẹn của mỗi gia đình trong xã hội.

dly
06-10-2008, 06:18
Xót xa!
Cay đắng
Ôi con người

Vĩnh Thắng
06-10-2008, 08:28
Người già sợ nhất là bị quên lãng...

dly
06-10-2008, 20:23
Người già sợ nhất là bị quên lãng...

Đồng ý với cu Gà

Ới Xoan ơi! :rolleyes:

silkroadpro
06-10-2008, 21:28
bữa trước mình có xem trên HTV vào ngày kỷ niệm Người cao tuổi.Xót xa thật ! Tấm hình bà lão trên kia khóc mình có thấy,bà bảo rằng muốn về thăm con cái lắm,nhưng ko được vì ko có tiền,mà có về thì con cái cũng ko thể nuôi nổi vì nhà nghèo....

TNDH
07-10-2008, 08:06
Đồng ý với cu Gà
Ới Xoan ơi! :rolleyes:

http://img261.imageshack.us/img261/1267/angrymw5.jpg

Lão Dê tính quậy quán hử


Cơm nguội còn nóng hổi đê !?
Mười mấy năm rồi mà sao vẫn ngỡ như mới đây ?!!



http://img253.imageshack.us/img253/7034/vidangkr1.jpg

Về một thời không dám nhận mình là người Việt
Một đồng chí giám đốc thuộc loại trẻ, có học thức, sau khi kể với tôi chuyện đi Tây, đã than: "Phải chi nhà báo các ông được đi nhiều để viết cho dân mình, cán bộ mình cùng đọc, cùng hiểu cái thân phận nghèo nhất thế giới của chúng ta mà đủ nhục như cái nhục mất nước, vậy mới quyết chí vươn lên nổi".

Nhưng thưa bạn đọc, nếu chờ tới lượt mình đi nước ngoài thì "còn khuya" nên tôi mạn phép mượn lời kể của những nhà quản lý mà tôi đã gặp sau những chuyến đi học tập bên xứ người để viết bài ký sự dưới đây.

Có một người ngoại quốc từng muốn: "Ngủ một giấc, sáng ra thấy mình là người Việt Nam". Câu nói này hình như chỉ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích!

Lần đầu tiên đến Thái Lan, ngồi đợi ở sân bay Bangkok, tôi thấy một đoàn người xếp hàng dài dưới nắng mà không được vào ga. Hỏi ra mới biết đó là những thanh niên Việt Nam chờ máy bay chở đi lao động ở Trung Đông. Họ không được phép vào ngồi đợi máy bay ở nhà ga như những hành khách khác.

Tôi không hiểu tại sao nhưng cảm thấy nhục vì người Việt Nam mình đi nước ngoài, nhất là các nước tư bản, là phải đi qua cửa ngõ sân bay Bangkok - thay vì chỉ cần qua của ngõ Tân Sơn Nhất của ta - rồi từ đó mới đáp may bay đi tiếp. Cho nên phải chịu bao cảnh ngang trái đau lòng.

Trở lại chuyến đi lao động ở Trung Đông. Một người bạn ngồi ở phi trường với tôi hôm đó kể rằng: người Việt Nam đi Trung đông để đào kênh qua sa mạc, lao động cực nhọc, thỉnh thoảng còn bị đánh đập, vì nước người ta là tư bản. Có anh xa vợ lâu ngày mà bên Trung Đông cái khoản phụ nữ là đặc biệt cấm kỵ nên khi về đến Thái Lan, bao nhiêu tiền dành dụm đem ra ăn chơi xả láng và mắc bệnh không dám về nước nữa.

Nhân chuyện này tôi nhớ có lần đi dự một hội nghị du lịch ở Tiệp Khắc, ở đó, tôi đã xem trên truyền hình một bộ phim tài liệu hình sự, diễn ra cảnh các thanh niên Việt Nam lao động hợp tác tại Tiệp Khắc thanh toán nhau bằng búa. Tôi chợt hiểu tại sao tôi đón mãi mà xe buýt không dừng, đến khi mang huy hiệu phái đoàn Nhật thì mới đón được xe. Cũng không lạ gì cảnh người Việt Nam ở Matxcơva không dám chào nhau bằng tiếng Việt vào thời điểm có một thanh niên Việt Nam giết một cảnh sát vì bị bắt quả tang nấu rượu lậu.

Còn đâu huyền thoại về người Việt Nam anh hùng? Khi tôi đến nước Pháp hào hoa, đi ăn ở nhà hàng với mấy anh bạn Việt kiều, mấy ông khách bàn bên cạnh thấy chúng tôi là người châu Á, hỏi: "Mày là người nước nào?" Tôi chưa kịp trả lời đã nghe người bạn Việt kiều: "Người Nhật". "A, ông khách ngoại quốc kêu lên - nước Nhật của ông giỏi lắm. Xin cụng ly chúc mừng ông!".

Một lần khác tôi được giới thiệu là người Phi Luật Tân, thì người ta nói: "Nước ông còn đỡ hơn Việt Nam". Ở Matxcơva tôi thử nói người Trung Quốc xem sao thì được câu trả lời: "Ông nên gửi hàng thêm. Hàng của nước ông tốt lắm. Còn hàng Việt Nam ở Nga thì quá tệ".

Đó chỉ là những câu nói vô tình vì họ không biết tôi là người Việt và chính vì vậy, những câu nói đó chứa đầy vị đắng của sự thật.

Lâu nay chúng ta cứ đóng cửa ca ngợi nhau mà không biết thế giới đang ngày càng vượt quá xa chúng ta. Có dịp đi bàn chuyện buôn bán làm ăn ở một nước Tây Âu tôi mới thấy hết cái lạc hậu của mình.

Ở một nước tư bản, cán bộ kinh doanh của ta khi ngồi vào bàn đàm phán còn hỏi: "Các ông huy động vốn, được cấp vốn bao nhiêu?". Mà không biết rằng họ là tư bản, làm gì có khái niệm "cấp" hay "huy động" như chúng ta. Một điều đáng buồn nữa là trong khi thế giới người ta đã quan niệm quan hệ là: "hai bên cùng có lợi" thì cán bộ ta cứ nghĩ chuyện "đề nghị tài trợ, giúp đỡ, nghĩa là cứ tính chuyện... xin - cho".

Vì sao phải cám ơn người lẽ ra phải cám ơn mình?
Có lần tôi cũng tự xỉ vả mình vì tỏ ra choáng ngợp trước không biết cơ man nào là hàng hoá trên những đường phố Bangkok. Tôi đã đi lại hàng giờ trước những cửa hàng bán lốp ô tô xếp cao như núi, mà nhớ lại nỗi cay đắng của mình khi làm đơn xin duyệt một cái lốp ô tô, chờ cả tháng trời, lại xuống Vũng Tàu mới có.
Đến khi sang Singapore tôi mới khám phá ra rằng nỗi vui của tôi khi đọc tin trên báo chí mình ca ngợi một số nhà máy dệt "hiện đại hoá thiết bị" nhập máy mới, rẻ, tiết kiệm cả triệu USD là chuyện buồn cười. Singapore, Nhật, CHLB Đức đâu còn muốn dệt vải nữa vì nhân công quá đắt.

Ta cảm ơn họ rối rít trong khi lẽ ra họ phải cám ơn ta mới đúng, vì đã lãnh "của nợ" giùm họ (dù của nợ này cũng tốt chán với chúng ta). Chẳng qua chúng ta thiếu thông tin, như anh mù xem voi: đụng cái nào cũng là "voi cả".

Ở Manila, tôi để ý thấy người ta quảng cáo rầm rộ trên ti-vi những sản phẩm mang nhãn hiệu nước ngoài được sản xuất lắp ráp tại chính Phi Luật Tân, theo kiểu sous-license, mà không mặc cảm, tự ti dân tộc chút nào, vì hàng vừa tốt vừa rẻ. Tôi đến thăm hãng Samsung ở Seoul. Trước đây hãng này cũng làm theo công nghệ Nhật và sản phẩm của hãng cũng mang nhãn hiệu nước ngoài, nhưng sau khi cải tiến được 50% các chi tiết thì sản phẩm được mang nhãn hiệu Samsung, hiện không kém gì hàng Nhật giá cả lại rẻ hơn.

Tôi được biết tiền lương tháng của một công nhân quét dọn ở đây là 500 đô còn Tổng Giám đốc là 7000 đô trở lên. Lên án chế độ bóc lột công nhân tận xương tuỷ như thế nào đây?

Nói đến chuyện sản xuất sous-license tôi nhớ hồi trước năm 1975 tại ngay Sài Gòn đã có nhiều hãng làm như vậy: National, Sanyo, Renault... Rất tiếc chúng ta đã để lỡ mất cơ hội, nay thấy người tiến bộ mà thèm.

Giờ xin nói sang chuyện dịch vụ. Ở các thành phố mà tôi đã đi qua: Tokyo, Singapore, Manila, Bangkok, Seoul... bất cứ đâu trong thành phố cũng đều có bàn "exchange" (đổi ngoại tệ) tạo mọi sự dễ dàng cho du khách chứ không khó khăn, kỳ cục như bên ta. Đặc biệt ở Manila tôi thấy các quầy đổi tiền của Ngân hàng Nhà nước đổi giá cao hơn của tư nhân. Cho nên phần lớn ngoại tệ đều rơi vào tay Nhà nước. Cách làm này hoàn toàn ngược với chúng ta.

Ở Thái Lan mạng lưới phục vụ cũng như thái độ phục vụ so với ta, có thể nói là "cực kỳ". Ấn tượng đầu tiên là thủ tục hải quan sân bay quá nhẹ nhàng. Hàng hoá ngoại quốc mang vô nước họ không thành vấn đề. Riêng hàng tiêu dùng mà Thái Lan không sản xuất, được mang vào tự do, không phải chịu thuế má gì cả.

Tôi đã đến bãi biển du lịch Pattaya. Cảnh quan nơi đây đâu sánh nổi với Vũng Tàu, Nha Trang chứ đừng nói chi Hạ Long, Đà Nẵng, thế mà du khách nườm nượp, phải kể con số triệu mỗi năm. Bởi họ biết tổ chức phục vụ tối đa mọi nhu cầu của con người, từ phòng tập thể dục đến bể bơi và kể cả "*** tours". Quan niệm đạo đức đã thành nếp không cho phép tôi chấp nhận một dịch vụ công khai như vậy. Nhưng đây là một vấn đề kinh tế dịch vụ dù có "dị ứng" về mặt đạo đức nhưng tôi vẫn phải công nhận sự tồn tại có lý của nó.

Tại khách sạn tôi ở có một phòng rất sang trong đó có các cô gái xinh đẹp mang số hiệu đoàng hoàng. Khách bên ngoài nhìn vào có thể lựa chọn. Phản ứng đầu tiên của tôi là phẫn nộ, nhưng nhớ lại cảnh bên nhà: ngoài đường ban đêm không thiếu các cô gái ăn sương, thậm chí báo chí đã đăng nhiều phóng sự nên tôi đành "điều chỉnh" phản ứng của tôi. Từ bên trong các cô không nhìn thấy mình đang bị lựa chọn như một món hàng. Ở Manila, các khách sạn lớn tuyển chọn những cô gái hoàn toàn tự nguyện.

Vào Việt Nam: buồn quá
Tôi tìm hiểu và ngạc nhiên khi biết có đoàn du khách nước ngoài vào Việt Nam và than: buồn quá. Sau đó họ bay sang Thái Lan, Mã Lai vung tiền "đổi một trận cười như không". (Đương nhiên chúng ta không thể làm như họ nhưng cũng không thể bình chân như vại, chịu cảnh thất thu). Đó chẳng phải là nỗi đau của những nhà làm du lịch hay sao? Riêng tôi, càng đi càng thấy đau.

Lúc đến Singapore, tôi để ý thấy trong danh bạ điện thoại ở khách sạn, nhà hàng đều có câu đại ý: có thể gọi khắp thế giới ngoại trừ Việt Nam. Tôi bàng hoàng vì không thể ngờ trong thời đại bùng nổ thông tin này vì kém cỏi mà mình đã bị loại ra khỏi hệ thống. Họ hận thù vì ta là xã hội chủ nghĩa? Nhưng Tiệp Khắc, Liên Xô, Trung Quốc thì sao? Tôi không lý giải được, chỉ thấy một nỗi nhục canh cánh bên lòng.

Ở Seoul tôi bị một nỗi đau khác gặm nhấm khi thấy trên đường phố toàn xe hơi nhưng không tìm đâu ra một xe nào do nước ngoài sản xuất. Người Nam Triều Tiên toàn đi xe hơi do nước họ sản xuất. Cũng không nên vội vàng so sánh với Việt Nam bởi ta chưa sản xuất được xe hơi. Có điều tôi đau khi biết rằng chủ hãng xe hơi lớn nhất Nam Triều Tiên hiện nay, hãng Hyundai, là con trai một nông dân mà lúc cha của ông ta còn cày ruộng thì ở Sài Gòn, người ta đã lắp ráp xe La Dalat rồi.

Trước đây nhiều người sợ rằng nếu mở cửa du lịch thì văn hoá tư sản sẽ ùa vào, đầu độc thanh niên nước ta nhưng đi một số nước tôi thấy không hẳn thanh niên nước đó chỉ biết ăn chơi, sống vội. Như ở Seoul chẳng hạn, thanh niên ăn mặc lịch sự, gọn gàng, lúc nào cũng thắt cavạt rất chững chạc, văn minh. Tôi để ý thấy họ rất ít nhậu nhẹt và hút thuốc ngoài đường phố. Ở Seoul 10 ngày tôi chỉ mời được 1 người hút thuốc. Có lẽ rượu, thuốc lá đều rất đắt mà họ lại tiết kiệm tiêu xài chứ không "xả láng sáng nghỉ sớm" như quan niệm của một số bạn trẻ chúng ta.

Ai đi xa về lại không sung sướng khi máy bay đến gần Tổ quốc. Tôi không có niềm sung sướng đó mà chỉ hồi hộp, lo âu vì biết bao thủ tục phiền hà đang chờ đợi. Rời sân bay Bangkok chưa đầy mười lăm phút đã thấy nhân viên hàng không phát cho hành khách mỗi người bốn tờ giấy dài đầy chữ.

Hầu như thấy vui đó mà chỉ có cảm giác hồi hộp, lo âu vì biết bao thủ tục phiền hà đang chờ đợi. Hầu như mọi thứ lỉnh kỉnh đều phải khai ra hết, bao nhiêu áo Pullthun, áo gió, quần bò cho đến một đồng đô còn sót. Chưa khai hết một tờ đã dọn ăn. Có hành khách không kịp ăn vì còn phải vật lộn với những khoản mục trong tờ khai.

Tôi chợt nghe hai ông khách nói tiếng Anh ở hàng ghế trước: "Ông đi Việt Nam du lịch?". "Không, tôi có việc mới đến, chứ xứ sở quá phiền hà này đi du lịch cái gì". Tôi như bị tát tay hay một gáo nước lạnh vào mặt.

Chưa hết, xuống nhà ga phi cảng lại phải chờ hàng giờ, mồ hôi đẫm lưng áo mà thủ tục dường như cứ đứng ì một chỗ. Một ông khách tưởng tôi là người ngoại quốc, lắc đầu nói: "Mất cả giờ rồi mà chúng ta chưa ra khỏi phi trường, không có đâu như ở đây". Tôi đỏ mặt xấu hổ nhưng không biết nói sao.

Các bàn để làm thủ tục hải quan xếp theo hình chữ U quanh hành khách cũng gây cảm giác sợ hãi như đứng trước vành móng ngựa. Tôi đã đi qua nhiều nước và có ý so sánh bên mình qua các cửa sân bay nên bấm giờ để coi thủ tục họ nhanh -chậm thế nào.

Phải nói các nước XHCN còn chậm, nhưng các nước tư bản thì không quá vài phút. Ở phi trường Nhật chỉ 5 phút. Ở Bangkok, mình đi chậm, nhân viên hải quan còn hối thúc đi nhanh. Ở các nước, tờ khai của họ chỉ bằng bàn tay với bốn năm câu hỏi, chủ yếu để thông báo khi có tai nạn. Ở Bangkok, mang vào trên 10.000 đô la thì mới khai, nhưng không khai cũng không sao. Họ sợ mất khách du lịch vì một thái độ bất nhã nào đó, nên rất tránh khám xét. Họ dám bỏ con tép để câu con tôm chứ không cò con như chúng ta. Cái cảm giác dễ chịu không thể nào có được khi đứng trước những khuôn mặt lạnh lùng, nghi kỵ tại căn phòng làm thủ tục ở sân bay. Đối với người đi du lịch, cái thích nhất chưa hẳn là cảnh đẹp, gái đẹp mà lòng hiếu khách.

Kết thúc bài ký sự "quá giang" này, tôi không biết nói gì hơn là cảm ơn (và cả xin lỗi) những đồng chí xưng "tôi" rong bài: Nguyễn Bá, Lê Công Giàu, Đặng Trung Tín, Lê Hùng Dũng, Khiều Thiện Thuật, Phan Phùng Sanh và Nguyễn Đăng Liêm, những người đã mất thì giờ cho nhà báo sau những chuyến đi xa.

Cái cảnh "quá giang" cũng là đặc biệt, nhưng biết làm thế nào đối với một nhà báo quá đói thông tin. Lại nữa: mùa xuân "trông người lại ngẫm đến ta", chẳng khác nào uống thuốc đắng, không có thú vị gì; nhưng tổ tiên vẫn dạy: thuốc đắng dã tật. Nghìn chén đắng thế này cũng chưa dã tật đâu, tôi chỉ mong nỗi nhục này góp phần thức tỉnh chúng ta, vươn lên làm giàu và sống có văn hoá, văn minh thật sự, chứ không mãi tự ru mình trong những ánh hào quang.
TP.HCM, tháng 1/1989.
Nhà báo Trần Ngọc Châu (Saigon Times)


http://img151.imageshack.us/img151/9901/999568rt7.jpg
Vị đắng những chuyến đi xa - ký sự của Trần Ngọc Châu, NXB Trẻ

Một thông điệp của hi vọng
Tuổi Trẻ - Trần Ngọc Châu là một sinh viên lành tính, dễ mềm lòng trước cái đẹp, biết làm thơ và có người đọc từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường.
Trước tháng 4-1975 anh đi dạy học, năm 1976 anh đi thanh niên xung phong, tiếp tục làm thơ và viết báo. Anh có bạn đọc trước khi được mời làm phóng viên báo Tuổi Trẻ, rồi trở thành phó tổng biên tập của nhóm Thời báo Kinh Tế Sài Gòn.
Anh trở thành phóng viên kinh tế khi đất nước rơi vào khủng hoảng, kinh tế tiêu điều, nhân tâm ly tán. Anh là người sớm thất vọng và tự vượt qua những phút yếu lòng bằng cách thức của riêng mình, một cây bút phóng sự và ký sự biết lắng nghe sự mách bảo và kêu đòi của cuộc sống, vốn không khoan nhượng với những trật tự lỗi thời.
Khi thị trường còn là điều cấm kỵ, anh kết bạn với những doanh nhân dám mở cửa nhà máy đặt quan hệ với thị trường. Khi đất nước còn bị đóng cửa, anh làm người đưa tin cần mẫn biết bước qua những biên giới tạm thời để tìm ra những giá trị không biên giới. Anh để đầu óc tự do rộng mở tiêu hóa vị đắng của những chuyến đi xa và chia sẻ với người đọc những thông điệp của niềm hi vọng.
36 ký sự đường xa cũng bởi vậy là 36 nỗi nhớ quê nhà, của một người dẫu có bước ra trăm nẻo đường xa thì cũng chỉ để trở về...
HUỲNH SƠN PHƯỚC

edavn
07-10-2008, 17:53
Nhân tiện bài của bác TNDH đăng lại trên Vietnamnet em thấy dạo này báo Vietnamnet phản ánh rất khách quan và sát thực với đời sống, hơn hẳn tất cả các báo khác:w00t:

nino
07-10-2008, 19:18
chỉ được 1 thời gian thôi... nhiều khi viết quá... reng reng, một cú điện thoại... mọi việc êm ngay :no:

TNDH
07-10-2008, 20:09
Nhân tiện bài của bác TNDH đăng lại trên Vietnamnet em thấy dạo này báo Vietnamnet phản ánh rất khách quan và sát thực với đời sống, hơn hẳn tất cả các báo khác:w00t:
Bác Éo quên dòm ngày roài: 30/12/2006 :lick:
Ngày đó; tháng đó; năm đó hình như làng báo nhà ta còn "chệch choạc láng quáng" lém :lick: Chửa bít phải đi lề nèo :lick:

[=========> Bổ sung bài viết <=========]

Quả là
có một thời
"Chuột chạy cùng sào
mới vào sư phạm":no:


Nguyễn Phi Hùng
Nhỏ không học, lớn đi dạy

http://img401.imageshack.us/img401/5229/58um3.jpg

1. Nhỏ không học
Nói chuyện “nhỏ không học, lớn đi dạy” nghe vô lí, nhưng việc học hành của tôi nó đặc biệt lắm. Học xong lớp 12, tôi rành đốt than hơn hiểu về cơ thể, giỏi làm ruộng hơn hiểu định luật III Newton. Lên rừng đẽo cây về làm cột kèo hay đánh tranh lợp nhà, tôi làm tốt hơn viết một bài văn…

Trước 1975, tôi học nửa chừng lớp 5. Mọi môn học đều được dồn trong bộ sách Tám môn yếu lược. Tôi chỉ nhớ rằng, nếu hồi đó không được học nữa thì bao nhiêu kiến thức đã tiếp thu, đủ “ra đời” làm một công dân tốt cho đất nước vào thời điểm đó và hình như cho cả bây giờ. Tôi biết viết một lá đơn đúng cách, viết một tờ thư bày tỏ được tình cảm. Tôi rành các phép toán cộng trừ nhân chia, nắm bắt được khoa học thường thức phục vụ đời sống. Biết qui tắc xã giao, biết tôn trọng nhân phẩm v.v… Tôi liên tưởng thế này: Trong cái dự án “Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn” (PEDC) hiện nay, do Bộ Giáo dục và các tổ chức nước ngoài triển khai, nếu được phép dùng bộ sách Tám môn yếu lược cho người học, chắc chắn hiệu quả và đỡ tốn kém biết bao!

Sau 1975 tôi học lớp 6, gọi là lên cấp 2, rồi đến cấp 3, tôi gần như làm nhiều hơn học. Cắp vở (không có sách, hoặc rất ít sách) đến trường “bữa đực bữa cái”, tức là nghỉ học thường xuyên và chưa khi nào mở vở xem bài cũ ở nhà. Không có thời gian làm việc đó. Cứ đến môn học nào, tranh thủ giờ ra chơi, tôi liếc qua một cái đủ đối phó “kiểm tra miệng”, sau đó quên tuốt ngay.

Bây giờ tôi không nhớ lắm kiến thức các môn học, thầy dạy thế nào, sách viết ra sao, nhưng những chuyện tréo ngoe, thiệt thòi cho học sinh, tôi nhớ như in. Cả bốn năm học cấp 2 (lớp 6, 7, 8, 9), bỗng nhiên riêng lớp 8 được học tiếng Anh, mà lại là tiếng Anh lớp 6. Vậy rõ ràng tiếng Anh được học từ cấp 2, tại sao chúng tôi không được học? Trường cấp 2 tôi học ở đồng bằng, cách thị xã Tuy Hòa, nay là thành phố Tuy Hòa có 3 cây số, đâu phải núi non hiểm trở gì. Lên lớp 9, ông thầy dạy tiếng Anh chuyển đi đâu mất. Lên cấp 3 (lớp 10, 11, 12), đó là quãng năm 1980 – 1982, tôi nhớ một chuyện lạ thế này: cả ba năm cấp 3, môn Sinh vật chỉ học độc quyển Sinh vật lớp 12, học duy nhất phần nguồn gốc loài người. Môn Hóa bỏ luôn phần “hóa vô cơ” vì thiếu thầy dạy. Môn tiếng Anh mất tiêu luôn. Các bạn thấy phần nào là đúng, khi tôi nói “nhỏ không học” cả khách quan lẫn chủ quan rồi.

Xin nói rõ trường cấp 3 tôi đang học không phải nhỏ, chứng tỏ học sinh miền Nam khi ấy đều thiệt thòi như tôi. Số này hiện đang độ tuổi 44, 45. Nếu họ làm nông dân thì không nói làm gì, còn nếu họ làm cán bộ hoặc đi dạy học như tôi thì nguy hiểm quá. Hồi đó nếu báo chí được nói như nay, chắc “inh ỏi cả làng”. Bây giờ ngày nào báo chí cũng ra rả mổ xẻ sách giáo khoa thế này, thế nọ, chứ sách giáo khoa khi tôi học, người viết thậm chí không biết nhấn mạnh kiến thức trọng tâm nữa kia, cứ tuôn ra thuông luông vậy. Thỉnh thoảng thấy đâu đó mấy quyển sách giáo khoa Toán, Lí, Hóa… trước 1975 mà phát thèm, vì họ trình bày hay quá, khoa học quá.

Tôi luôn là học sinh trung bình vì có học bài đâu, để được điểm cao. Học tập trung bình, đạo đức trung bình, cứ riết vậy tôi đâm hèn nhát. Tôi đi học giống như ráng ngồi ké trong lớp, trông mau hết giờ để về. Tôi buồn lắm, quá nhiều lần muốn nghỉ học và cũng nhiều lần suýt bị đuổi học. Vậy mà trời thương thế nào, tôi cũng học xong lớp 12.

Thấy bạn bè làm đơn thi đại học, tôi nao nao trong lòng rồi cũng đệ đơn đi thi. Biết phận mình học dở, tôi thi đại học sư phạm (ĐHSP). Đề thi chung cho tất cả các trường, nhưng điểm tuyển sinh ĐHSP luôn thấp nhất. Tôi lủi thủi đi thi rồi lủi thủi về, lên núi đốt than. Ông chú ruột tôi hỏi: “Mày thi đậu không mày?”. Chú hỏi có vẻ xấc, vì học như con của ổng còn rớt, phải xin vô trung cấp sư phạm, cỡ tôi nhằm nhò gì. Tôi trả lời: “Dạ! chắc đậu chớ, ĐHSP lấy điểm thấp mà”. Ông chú không hỏi thêm nhưng tỏ vẻ không ưa vì cho tôi nói dóc. Tháng sau có giấy báo đậu với điểm số ba môn Toán Lí Hóa cộng lại bằng 16. Tôi có vui nhưng rất thất vọng vì điểm thi quá thấp. Lại lủi thủi lên đường đi học. Sau này tôi nghe bạn học trong lớp tôi rớt đại học ráo, có đứa chưa bao giờ nghe thầy cô than phiền về học vấn, thi ba môn cộng lại được 4 con số không, té ra là Toán 0, Hóa 0, Sinh 0, tổng cộng bằng 0. Với 16 điểm, tôi có thể đậu vào những đại học danh giá như: Đại học Hải sản Nha Trang, Đại học Bách khoa Đà Nẵng. Buồn cười hơn, điểm thi của tôi như vậy là quá cao trong lớp toán ở ĐHSP năm đó. Mấy đứa con gia đình lí lịch nhóm 1, đậu vào chỉ có 9 điểm; chưa hết, thí sinh thi khối Văn Sử Địa, đậu ĐHSP tệ hại hơn, 7 điểm, trung bình mỗi môn 2,33 điểm. Vậy mà bảo họ ra trường dạy cho giỏi, cho tốt, có phải quá sức họ không? Ở phổ thông tôi chẳng học hành gì, cũng đậu đại học. Đậu với điểm số trung bình nhưng lại quá cao so với nhiều người, lên đại học tôi càng không học.

Mới chân ướt chân ráo vô trường, vào trễ vì trục trặc giấy tờ, nghe anh lớp trưởng tuyên bố: “Ai ở phổ thông đã học Anh văn 7 năm thì đăng kí lớp tiếng Anh, còn lại học tiếng Nga”. Tôi chọn học tiếng Nga. Sau đi ngang lớp Anh, biết họ học “vỡ lòng” lại mấy bài như: Greetings, At home, Countries… tôi cứ tiếc hùi hụi. Thiệt ra biết một ngoại ngữ nào cũng tốt cả, nhưng trong lòng không thích tiếng Nga thì không học được. Tôi học môn Triết học Mác-Lênin, chỉ nhớ: Vật chất quyết định ý thức. Hết. Tôi học môn Lịch sử Đảng chỉ nhớ: Nhờ Đảng ta mà đất nước được thống nhất như ngày hôm nay. Hết. Có quýnh tôi trăm hèo cũng chỉ nhớ bấy nhiêu đó. Thế mà hết bốn năm đại học, nghiễm nhiên tôi có trình độ “sơ cấp chính trị”, trong học bạ của chúng tôi thấy ghi rõ ràng vậy. Còn tiếng Nga thì khai thiệt, sau bốn năm ĐHSP chỉ nhớ mỗi câu nói của Lênin: “Учимся, Учимся и Учимся…” (Học, học nữa, học mãi).

Mấy ông giảng viên khoa Toán, mười ông thì hết chín không làm chủ được giờ dạy. Ông dạy Giải tích, nhiều lần giáo án để trên bàn bị gió lật sang trang, ông ghi ngay cái định lí cách bài đang học cả “cây số”. Ông thầy Đại số tuyến tính, thì ghi sẵn bài dạy vào tập giấy, mỗi lần quên cứ làm bộ cầm tập giấy quạt quạt vô mặt rồi lén nhìn vào đó. Thấy oải làm sao! Chưa thấy một giảng viên nào biết dùng tiếng Latinh, tiếng Pháp, tiếng Anh viết kèm các thuật ngữ khoa học hoặc từ chuyên môn. Chứng tỏ họ không có khả năng đọc giáo trình gốc mà chỉ nhai lại qua những bản dịch.

Mang tiếng học ĐHSP, tức học ra để đi dạy, nhưng môn Giáo học pháp ít được chú trọng nhất. Môn này được ngầm giao cho một giáo viên dở nhất khoa đảm nhận. Ông này giải toán phổ thông còn không xong, làm sao trình bày phương pháp giảng dạy để học sinh tiếp cận bài toán. Môn Giáo học pháp kết thúc năm thứ ba, tôi chỉ nhớ đúng một câu duy nhất về con đường nhận thức, theo sự luận giải của chủ nghĩa duy vật biện chứng (Dialectical Materialism): “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi mới đến thực tiễn”. Chẳng lẽ một giáo viên bậc trung học phổ thông chỉ cần biết bấy nhiêu đó về cách tiếp cận tri thức thôi sao? Cái gì cũng phải “trực quan sinh động”, coi chừng chết cả vạt!

2. Lớn đi dạy
Tốt nghiệp ĐHSP, tôi xin dạy không được, quái lạ chưa? Tuy nói ĐHSP dễ đậu nhưng cả trường cấp 3, niên khóa tôi hồi đó (có 5 lớp 12) chỉ đúng 3 đứa đậu ĐHSP. Một Toán là tôi, cùng một Lí và một Sử - Chính trị. Vậy nguyên nhân nào thừa giáo viên? Đó là do số giáo viên miền Bắc phủ kín. Hình như tất cả ngành nghề đều có người của các tỉnh phía Bắc, riêng ngành giáo thì đông hơn hết, nhân lực như ứng trực sẵn vậy. Không xin dạy được, tôi đi đào vàng mấy năm, sốt rét gần chết.

Cuối cùng tôi cũng được đi dạy. Nhiệm sở là một trường cấp 2&3 miền núi (từ lớp 6 đến lớp 12). Trường nhỏ, có 20 giáo viên, nhân viên mà có đến hơn 15 người từ vĩ tuyến 17 trở ra. Chỉ mỗi tay hiệu trưởng điều hành hết các công việc, không có hiệu phó. Tôi chịu cực khổ từ nhỏ, ai cũng than thở lương bổng ít ỏi, chứ đối với tôi không thành vấn đề. Tôi còn ba xạo nói: “Nếu tôi làm thủ tướng, việc đầu tiên là tôi cắt bớt lương giáo viên, thầy giáo có đói khổ dạy mới hay!”.

Tôi kể một chuyện thế này: Một chị dẫn đứa con gái đến trường xin học lại. Con bé thấy chuyện học khó quá, đã bỏ học gần hai tuần. Nó đang học lớp 7, tôi đang dạy Toán lớp đó. Được hiệu trưởng đồng ý, chị ta hồ hởi đi ngang qua phòng đợi, gặp mấy giáo viên đang ngồi uống nước, chị tạt vô tâm sự: “Tôi biết nó (con của chị) học dở, chớ mà ráng, chắc ít nhứt nó cũng làm được giáo viên. Kệ nó, mấy thầy thương đừng có la rầy nó”. Nói xong chị cắp nón ra về. Trời ơi, cái bà ăn nói kiểu gì lạ!. Giáo viên già còn bình tĩnh, mấy anh tre trẻ đỏ mặt tía tai. Tôi không bình phẩm gì nhưng thấy trúng quá. Giáo viên cấp 3 (tốt nghiệp ĐHSP) còn có vẻ khó làm, chứ giáo viên cấp 2, cấp 1 (tiểu học), gần như ngành sư phạm lùa hết học sinh tốt nghiệp lớp 9, lớp 12 vào học. Hiện giờ số giáo viên cấp 1, cấp 2 này có bằng đại học (từ xa) cả. Được gọi là giáo viên đúng chuẩn, trên chuẩn mà tiếng Việt xài chưa rành; bằng A bằng B Anh văn tùm lum nhưng thấy người Tây nói chuyện cứ đứng đực, giương mắt ếch ra, rồi cười như người bị tâm thần.

Ngày mới được đi dạy, nói thiệt tôi mừng lắm. Tay hiệu trưởng phân tôi dạy hai lớp 7, tôi vui vẻ nhận công tác. Sau cái vụ bà phụ huynh “trời đánh” phát biểu, tôi mới nghĩ, lẽ ra tôi phải dạy Toán từ lớp 10 trở lên chứ, thế này hóa ra tôi cùng mâm mấy thằng học cao đẳng sư phạm à? Càng nghĩ tôi càng ức, cho dẫu tôi có khiêm tốn nghĩ rằng, nhỏ tôi không học hành bao nhiêu, lớn được đi dạy thế này, quí hóa rồi. Nhưng rõ ràng tôi hơn hẳn mấy anh (chị) chàng giáo viên cấp 2 về chuyên môn cả nút. Nghĩ vậy thôi chứ tôi biết thân biết phận lắm. Tới 3 năm sau, tôi vẫn không được dạy cấp 3. Một lần anh giáo viên đang dạy lớp 12 bị bịnh, tay hiệu trưởng nhờ tôi lên lấp chỗ trống. Còn nhớ hôm đó tôi phải hoàn thành cho hết bài “Khảo sát hàm số”, rơi vô phần hàm số hữu tỉ (rational function). Tôi có khù khờ cỡ nào cũng nhận ra ánh mắt học trò ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vỡ lẽ ra: “Sao có ông thầy dạy tốt thế này mà mình không được học nhỉ?”. Lớp 12 đó ra trường, chúng vẫn thường xuyên đến thăm tôi, chúng nói: “Thầy dạy tụi em có hai tiết, nhưng tụi em quí thầy lắm, em chưa thấy thầy cô nào viết chữ đẹp như thầy, nói rõ ràng, dễ hiểu như thầy”. Phụ huynh học sinh cũng biết tiếng, qua hai tiết dạy này. Năm sau tay hiệu trưởng phân công tôi lên dạy toán cấp 3. Chỉ có tôi biết rõ tôi. Tôi làm gì dạy hay đến mức độ đó, chẳng qua ở cái trường miền núi này, giáo viên yếu quá thành ra tôi hay.

Năm tôi đi dạy là năm 1989, đã gần mười lăm năm sau ngày giải phóng miền Nam, nhưng cánh giáo viên miền Bắc vẫn còn mang tâm lí kẻ chiến thắng: Chỉ có họ là hay, là giỏi, là kẻ được quyền áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác…

Từ hồi còn học cho đến lúc đi dạy, mỗi lần nghe giáo viên miền Bắc phát âm từ chuyên môn, hoặc tên riêng là tôi không nín cười được. Ví dụ electron thì họ đọc: ê léc tờ rôn, nhà toán học Pascal thì đọc: Pát sì can. Họ còn hay bốc thơm lẫn nhau. Nói hết ra chuyện họ bốc thơm nhau, thêm dài dòng. Tôi chỉ xin kể một chuyện: Cứ hai năm, Sở Giáo dục - Đào tạo tổ chức thao giảng cấp tỉnh một lần, thường tổ chức tại một trường cấp 3 nào đó dưới thị xã Tuy Hòa. Trường tôi cử đi ba giáo viên, một Văn, một Lí, một Toán, được coi là những giáo viên “giỏi”. Cả trường nháo nhác. Tiết dạy đã được biết trước non tháng, dù chương trình chưa tới, vẫn bắt học sinh học, để thầy cô có chỗ dạy thử từ lớp nọ sang lớp kia. Dạy xong rồi góp ý đủ kiểu. Khi khăn gói lên đường “cờ giăng trống giục”, đồ dùng dạy học phải cho người chở đi trước. Kết quả cả ba đều không đạt giáo viên giỏi cấp tỉnh.

Hai năm sau lại đến lượt “đi thi giáo viên giỏi cấp tỉnh”. Tay hiệu trưởng ngó tôi: “Lần này môn Toán, anh Hùng đi chứ”. Tôi buồn buồn chẳng nói gì. Khi biết bài dạy, cũng như lần trước, cả trường lại nháo nhác. Riêng tôi kiên quyết không dạy thử, nếu trường đã chọn tôi tham gia hội giảng. Đến ngày mai đi thi, chiều nay lớp 11 tôi đang dạy, phần hình học không gian đến bài “Khoảng cách”, đúng tiết hội giảng cấp tỉnh, tôi rủ các giáo viên trong tổ dự giờ. Chiều đó tay hiệu trưởng mời hai giáo viên cùng đi thi với tôi, ăn bún với ban giám hiệu. Tôi biết anh ta thích thành tích, mới săn đón chúng tôi thôi. Hiệu trưởng ngồi sát bên tôi hỏi: “Cá anh Hùng đạt giáo viên giỏi không hè”. Tôi lấy giấy lau cái miệng dính mỡ của tô bún bò, nói to cho mọi người cùng nghe: “Nói thiệt, như năm kia cả tỉnh 12 giáo viên Toán tham gia, đạt giỏi cả 10, chỉ có hai giáo viên không đạt (trong đó trường tôi có một), chẳng lẽ tôi không nằm trong top ten đó sao!” Nghe tôi nói, hai người cùng đi với tôi, một Văn, một Sử hơi vững tâm, nhưng những người khác trong ban giám hiệu chắc dễ gai tôi lắm.

Sáng hôm đó tôi lủi thủi đón xe đò đi thị xã Tuy Hòa, đường dài 45 cây số. Chiều đúng 1 giờ 30 tôi vào lớp. Tôi chẳng cần phải gặp trước lớp đó để mớm bài, cũng chẳng cần tranh ảnh vẽ trước. Trong bài “Khoảng cách” có sáu cái hình không gian, nói đến đâu tôi vẽ đến đó, vẽ bằng tay thẳng tưng, mặt phẳng ra mặt phẳng, đường thẳng ra đường thẳng. Dạy xong, tập trung tại hội trường góp ý, chấm điểm. Ngoài giáo viên Toán thực dạy, mỗi trường đều cử người đi theo để yểm trợ. Ban giám khảo hỏi: “Anh Hùng tự nhận xét giờ dạy mình trước đi”. Tôi nói năm câu ba sợi rồi kết luận giờ dạy của tôi đạt mục đích yêu cầu, tôi chả cần gì phải khiêm tốn: “Em còn thiếu sót chỗ nọ, chỗ kia…” Kết quả 11 giáo viên Toán tham gia đợt hội giảng đó chỉ một giáo viên không đạt. Thi cái kiểu gì lạ? Tôi mang cái giấy chứng nhận giáo viên giỏi cấp tỉnh về trường, tay hiệu trưởng “nể” tôi ra mặt. Còn tôi thì buồn thêm một chút nữa.

Sau lần đó hình như cánh giáo viên miền Bắc bớt nổ, bớt bốc thơm cho nhau, kiểu như: “Ông X, ông Y đó hồi cấp ba, đại học, học giỏi lắm”. Thôi thôi, tôi rành cái sự giỏi đó quá rồi.

Mười năm sau, năm 1999 tôi xin về đồng bằng, dạy đúng cái trường ngày xưa tôi học cấp 3. Thời điểm này trường cấp 3 chuyển sang gọi là trường trung học phổ thông (THPT). Vài giáo viên lớn hơn tôi, ngày xưa là thầy tôi, ông nào giỏi, dở tôi cả biết rồi. Giáo viên cùng lứa, tôi càng rõ hơn; giáo viên nhỏ tuổi, tôi rành hơn nữa. Khả năng họ đến đâu, tôi biết. Cũng không đến nỗi ai đó không đủ khả năng dạy theo yêu cầu hiện nay, nhưng để gọi là xứng đáng một giáo viên THPT, bà con ngưỡng mộ, xã hội đặt niềm tin thì không có ai cả, tất nhiên có tôi lẫn chìm trong số đó. Vậy mà họ tụm lại là chê bai học trò bây giờ sao dốt quá. Trời ơi! Sao họ nói được như vậy nhỉ? Xưa họ có giỏi đâu, bây giờ ngổ ngáo thế. Nếu là học sinh giỏi, họ đâu có thèm thi ĐHSP? Như tôi đây ngày xưa, tôi học dở cỡ đó, bây giờ các anh chị có hơn gì tôi đâu? Cứ theo tam đoạn luận (Syllogistic) mà suy, biết ngay các anh chị thế nào! Vài giáo viên, tôi biết tỏng học hành chả ra làm sao, ra trường dạy được vài năm, họ quên tuốt cái đoạn học vấn khi xưa, lên lớp cứ ra rả mắng học trò dốt nọ dốt kia, thiệt không chịu nổi.

Ngược lại với số đông, tôi vẫn thường nói với học trò: “Hồi trước tôi học ở trường này, tôi học dở lắm, may sao giờ tôi được làm thầy”. Học trò cười ầm ầm không tin: “Thầy cứ xạo tụi em không à!” Tôi nghiêm sắc mặt: “Được rồi, không tin phải không, ngày mai tôi lấy học bạ cho xem”. Bỗng cả lớp cười to hơn nữa. Thì ra giáo viên nào cũng khoe mình học giỏi để áp đảo học sinh, và chúng tin đó là thật.

Ngày mới về trường cũ, học trò cứ theo hỏi: “Sao thầy không dạy thêm?” Tôi nói: “Thầy có giỏi giang gì đâu mà dạy thêm, dạy bớt”. Tôi chỉ chúng đến ông nọ ông kia học. Xưa tôi học hành có đàng hoàng, nên nỗi gì đâu mà giờ dạy thêm, tới tháng ngửa tay lấy tiền học trò, tôi mắc cỡ lắm. Tôi có cảm giác dạy thêm giống chuyện làm ăn phi pháp, bất chính vậy. Bởi tôi biết rõ và mọi giáo viên cũng đều biết quá rõ, không cần học thêm học trò vẫn học tốt kia mà!

Tôi năm nay 44 tuổi, dạy học được 19 năm, có lẽ đến cuối đời không ra khỏi Việt Nam để quan sát một trường phổ thông nào đó ở nước ngoài. Nhưng tôi tin chắc không ở đâu có kiểu “thi đua” trong trường học, như Việt Nam hiện nay. Chuyện này nhiều người nói rồi, để sinh động và dễ hiểu, tôi chỉ xin kể: Theo nguồn tin từ học trò, từ các bậc phụ huynh và từ các giáo viên xầm xì, xác định rõ anh giáo viên nọ quá yếu về chuyên môn, đến độ chỉ có thể sắp xếp làm “cán bộ quản lí giáo dục” thì được. Nhưng hãy xem, không có năm nào anh không là “chiến sĩ thi đua” [2] . Rất đơn giản, anh không bao giờ để lộ một vi phạm hành chính nào, một kiểu nô lệ các qui định. Lớp anh dạy, điểm số môn học của học sinh bao giờ cũng cao ngất, như vậy về chuyên môn anh hoàn thành xuất sắc, ai làm gì được anh. Không có cách đánh giá chuyên môn nào khác, và hình như ngành giáo dục cũng không muốn làm sát sao chuyện này, chỉ tổ mệt xác. Ôi, cái vụ “Nói không với tiêu cực và bệnh thành tích” còn lâu mới thực thi được. Nghe khôi hài thế nào.

Tôi kể giăng dấm có vẻ dài chưa nhỉ? Xin hẹn dịp khác viết tiếp chuyện học và dạy. Tôi mượn một câu mà hàng trăm, hàng ngàn lần khai lí lịch cá nhân, viết bản kiểm điểm công tác, viết bản thu hoạch chính trị,… phải dùng đến nó cho cuối mỗi văn bản, đó là: “Tôi xin cam đoan những lời khai trên là đúng sự thật. Nếu có gì sai trái tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm”.

Tác giả Nguyễn Phi Hùng là giáo viên trường THPT Trần Quốc Tuấn, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên.

TNDH
16-10-2008, 14:57
CÓ GÌ KHÁC BIỆT ?


http://img356.imageshack.us/img356/5525/mortarbomb200218midgb4.jpg


PHÁP LUậT
Thứ Tư, 15/10/2008, 08:15

Phát hiện 12 quả đạn, phải nộp 9 triệu đồng
TT(TP.HCM) - Chiều 14-10, tại khu xử lý rác thải xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, TP.HCM, lực lượng công binh của Bộ chỉ huy quân sự TP.HCM đã phối hợp cùng Ban chỉ huy quân sự huyện Củ Chi thu hồi 12 quả đạn.
Trước đó, từ chiều 11-10 tới sáng 14-10, công nhân đang san ủi cát trong khu xử lý rác thải phát hiện lần lượt 12 quả đạn và một số vỏ đạn. Một cán bộ quản lý của đơn vị thi công công trình đã điện thoại báo cho chỉ huy Công an xã Phước Hiệp. Chiều 14-10, công an xã, xã đội, ban chỉ huy quân sự huyện và lực lượng công binh của Bộ chỉ huy quân sự TP có mặt và xử lý vụ việc.
Tại hiện trường, ông Trần Quốc Cường (xã đội phó xã Phước Hiệp), và trung tá Võ Minh Hoàng (phó tham mưu trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện Củ Chi) đã yêu cầu đơn vị thi công - đơn vị phát hiện số quả đạn trên - phải nộp 9 triệu đồng tiền phí tiêu hủy. Theo hai cán bộ này, nếu số đạn trên được phát hiện trong lòng đất của địa phương thì địa phương sẽ chịu trách nhiệm xử lý. Trong trường hợp này, do số đầu đạn được vận chuyển theo cát xây dựng công trình từ nơi khác đến nên người vận chuyển tới phải chịu trách nhiệm.
Trưởng Công an xã Phước Hiệp phải đứng ra bảo lãnh cho đơn vị thi công “sẽ cho người giao nộp tận nơi” thì số đạn trên mới được đưa đi.
P.M.Đ.
Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=283267&ChannelID=6




Truyện ngắn Iran: Rác của nhà nước

Ngôi nhà của tôi nằm ở cái ngõ hẹp, tối. Trong ngõ, sống chen chúc 14-15 gia đình và có một hố rác lớn.
Người quét rác của khu phố cũng chọn cái hố rác đó làm chỗ đổ xe rác hàng ngày. Có lần, tôi hỏi những người hàng xóm:
- Tại sao các vị đổ rác ở giữa đường phố?
- Vì mọi người đều làm thế - Tất cả đồng thanh.
- Vì mọi người đều làm thế - Tất cả đồng thanh.
Sau đó, tôi hỏi người quét đường:
- Tại sao anh đổ rác của các nơi khác về đây?
Đó là nhiệm vụ của tôi.

Tôi đến Toà Thị chính:
- Cái ngõ của chúng tôi đã biến thành cống ngầm, ảnh hưởng tới sức khoẻ của mọi người. Xin các ông hãy ra lệnh cấm đổ rác ở đó.
Họ bảo với tôi:
Chúng tôi sẽ đăng báo 3 lần về việc bán rác. Ai trả cao hơn chúng tôi sẽ bán.
Tôi nói:
- Nhưng trong lúc chờ đợi, các ông phải làm cho bãi rác đừng to thêm.
- Chúng tôi không có quyền làm mất nguồn thu của nhà nước.
Tôi bỏ về và cố gắng im lặng mấy ngày.

Khổ nỗi, nhà tôi ở cuối ngõ nên mỗi ngày tôi phải đi qua hố rác mấy lần. Tôi phải bịt mũi và suýt ngất vì nôn và chóng mặt.
Cuối cùng, không kìm được, tôi mua cái bút lông, sơn, viết lên bức tường cạnh bãi rác dòng chữ: “Cấm đổ rác!”.

Điều đó chẳng ăn thua. Ban đêm, bọn càn quấy đã chữa thành dòng chữ “Được đổ rác”. Rồi người dân ở các khu bên cạnh đã đổ rác ở cái ngõ của tôi.

Đã mấy lần tôi tập trung hàng xóm để thuyết trình về mối nguy mất vệ sinh. Nhưng mặc, đống rác cứ mỗi ngày một phình to. Có lần, tôi đã bảo với những người đáng kính nhất:
- Chúng ta sẽ thuê xe và công nhân để họ chở rác ra ngoại thành.
Hàng xóm nhìn nhau. Thế rồi, người bỏ đi, người lắc đầu, bảo:
- Chúng tôi không thể can thiệp vào việc của người khác. Đây là rác của nhà nước.
Tôi hỏi:
- Rác của nhà nước từ bao giờ? Bãi rác này làm ô nhiễm cuộc sống của chúng ta. Nếu Toà Thị chính không làm, thì chúng ta phải tự làm. Họ sẽ cảm ơn chúng ta.
Thì anh làm đi!
Nếu tôi làm, thì các người phải hứa là sẽ thôi không đổ rác nữa.
- Nếu mọi người đều hứa.

Tôi thuê xe và công nhân mất 100 đồng. Sau hai ngày, rác được dọn sạch. Hàng xóm, ai cũng vui. Họ cảm ơn tôi.
Sau hai mươi ngày, một buổi sáng, lúc đang trên đường đi làm, tôi nghe thấy một ông lạ mặt hỏi cô gái hàng xóm:
- Ai đã dọn rác ở đây?
Tôi không biết - Cô gái đáp.
Tôi dừng lại. Mẹ cô gái trả lời thay con:
- Chúng tôi đã nhiều lần bảo đừng, nhưng hắn không nghe.
- Hắn sống ở đâu?
- Ở cuối ngõ. - Mẹ cô gái trả lời rồi chỉ ngôi nhà của tôi. Lúc nhìn thấy tôi, bà ta reo lên:
- Hắn đấy!
Người đàn ông lạ mặt hỏi tôi, vẻ hách dịch:
- Anh đã chở rác?
- Đúng.
- Ai cho phép anh?
- Chẳng ai cho phép.
- Anh chở đi đâu?
- Tôi không biết vì tôi không tự chở.
- Anh đã bán rác của nhà nước lấy tiền đút túi.
- Rác của nhà nước? Bán? Tôi phải mất 100 đồng để làm sạch cái ngõ này.

Ông lạ mặt lấy sổ tay, hỏi tên họ tôi, ghi vào rồi bỏ đi.
Sáng hôm sau, ông ta đến nhà, dẫn tôi tới gặp thủ trưởng. Thủ trưởng nhìn tôi, hỏi ông lạ mặt:
- Chính anh ta đã ăn rác của nhà nước.
Tôi kêu lên:
- Ai ăn rác của nhà nước? Ông cho tôi là loại người ăn rác?
Tất nhiên. Rác có thể ăn. Có thể ăn cả tiền bán rác. Mời anh ngồi!
Tôi ngồi ghé xuống ghế trước bàn thủ trưởng. Ông ta hỏi:
- Thế anh chở rác đi đâu?
- Hôm qua, tôi đã nói là không biết. Tôi chỉ trả cho lái xe 100 đồng rồi không biết sự thể ra sao.
- Anh không biết rác là tài sản của nhà nước? Theo cách tính của các chuyên gia kinh tế của chúng tôi, anh đã bán được 7000 đồng. Đó là việc ăn cắp tài sản của nhà nước. Hiểu chưa? Theo điều luật... Chuyển hồ sơ anh tới Viện kiểm sát.
Tôi vội nói:
- Xin cho tôi thời gian để tìm và chở rác về chỗ cũ.
- Không phải rác nào cũng là rác của nhà nước. Anh đừng đùa!
- Rác nào chẳng là rác? Có gì khác nhau?
- Khác nhau nhiều! Nói ngắn gọn, nếu sau 24 giờ, anh tìm được đúng loại rác đó và chở về chỗ cũ, thì là may cho anh. Nếu không, thì chúng tôi sẽ chuyển anh tới Viện kiểm sát.

Tôi ra về, vừa đi vừa nghĩ. Tôi không hình dung được là mình sẽ phải trả giá...
Lúc ông thị trưởng bảo là rác phải được bán đấu giá tôi nghĩ là ông nói đùa.
Tôi đến chỗ gara để chiếc xe chở rác, hy vọng tìm thấy người lái để hỏi anh ta chở rác đi đâu. Ở đó, người ta bảo tuần trước, anh ta cãi nhau với thủ trưởng của gara nên đã bị đuổi, chẳng ai biết anh ta đang ở đâu.

Về đến nhà, tôi quyết định cầu cứu hàng xóm. Tôi bảo với họ:
- Rác là của nhà nước. Tôi đề nghị mỗi người hãy góp vài xô rác để tôi đổ vào chỗ cũ cho khỏi bị phạt.
- Chúng tôi đã hứa là không đổ rác - Những người hàng xóm nói.
- Ngoài việc phải trả lại 7000 đồng tiền rác, tôi còn có thể bị bắt giam vì tội ăn cắp tài sản nhà nước. Tôi mong là vì tình bạn cũ và tình hàng xóm, vì thánh Ala, các bạn mỗi người cho tôi vay 2 xô rác. Sau một tuần, tôi sẽ trả.
Họ khép cửa trước mặt tôi, bảo:
- Chúng tôi không có rác thừa.
- Tôi tìm sự giúp đỡ của những người khác. Họ bảo:
- Anh tưởng chúng tôi mù, không trông thấy đống rác đó. Hay anh tưởng chúng tôi ngu? Muộn rồi, anh hãy tự lo.
- Tôi có thể lấy rác ở đâu?
Tôi ra ngoại ô, khẩn khoản mua số rác mà nông dân định dành ủ phân, mua con lừa rồi thuê chở rác về chỗ cũ.
Nhưng chú lừa vừa đi xong, thì có một ông đeo kính, xách cặp, gặp tôi, hỏi:
- Anh đổ cái gì ở đây thế?
- Tôi mang trả rác của nhà nước.
- Rác nào của nhà nước? Anh đổ oan cho nhà nước.
- Ông là ai?
- Tôi là chánh thanh tra của Bộ Y tế. Tôi có nhiệm vụ phạt những người đổ rác ra phố!
Tôi lắp bắp:
- Hãy cho tôi thời hạn 24 giờ để trả lại chỗ rác ăn cắp của nhà nước. Tôi đã mất 40 đồng để mua nó.
- Anh là kẻ phá hoại, gây ô nhiễm môi trường. Tôi phải đưa anh tới gặp nhà chức trách.

Tôi nói thế nào, viên thanh tra cũng không nghe. Ông ta gói một ít rác để đem về xét nghiệm vi trùng. Còn chỗ rác ông ta ra lệnh phải cho lừa chở về chỗ cũ và tôi phải đi theo ông ta.
Tôi bị thẩm vấn, ghi biên bản dài tới 16 trang, phải nộp phạt 500 đồng vì tội làm ô nhiễm môi trường. Hồ sơ của tôi và mẩu đất được gửi đi xét nghiệm.

Tóm lại, tôi phải bồi thường 7000 đồng vì tội ăn cắp tài sản nhà nước, bị phạt 3000 đồng. Đó là tội thứ nhất. Tội thứ hai là đã chõ mũi vào việc của người khác. Tội thứ ba là làm ô nhiễm môi trường.

Nhưng điều nhục hơn cả là hễ nhìn thấy tôi, hàng xóm lại chỉ mặt, gào thật to:
Nhìn thấy nó chưa? Mặt nó cứ vênh lên, chẳng nghe ai. Cứ tưởng mình là thánh tướng, muốn làm gì thì làm.

Đỗ Thanh dịch
(Nguồn: http://hoinhavanvietnam.vn/News.Asp?cat=12&scat=&id=322 )

TNDH
08-11-2008, 11:42
http://img241.imageshack.us/img241/7913/obamancy5.jpg



Diễn văn chiến thắng của ông Barack Obama

Nếu có ai đó vẫn đôi chút hoài nghi, không tin nước Mỹ là xứ sở của những điều không thể, không tin giấc mơ của lớp cha anh lập quốc vẫn tồn tại trong nước Mỹ thời nay, hay vẫn nghi ngờ về sức mạnh của nền dân chủ Mỹ, thì câu trả lời dành cho quý vị chính là đêm nay.

Câu trả lời là những hàng người kéo dài quanh các trường học, quanh các nhà thờ mà đất nước này chưa từng thấy.
Người dân đợi tới ba, bốn giờ đồng hồ, trong đó nhiều người lần đầu trong đời, vì tiếng nói của họ sẽ tạo ra thay đổi.

Câu trả lời là những lớp người trẻ, người già, người giàu, người khó; người theo đảng Dân chủ, đảng Cộng hòa; người da đen, da trắng, người nói tiếng Tây Ban Nha, người châu Á, người gốc da đỏ, người đồng tính, người dị tính, người tàn tật, người lành lặn - là những công dân Mỹ đã gửi thông điệp ra cho cả thế giới rằng chúng ta không chỉ là một tập hợp các cá thể, hay tập hợp các tiểu bang Cộng hòa hoặc Dân chủ: Chúng ta đã và sẽ mãi mãi là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Người ta đã nghe quá lâu nay rằng cần phải căm ghét người khác, phải sợ hãi và ngờ vực vào điều chúng ta có thể giành được nhưng nay họ dám tìm lời giải đáp bằng cách đặt tay lên bánh xe lịch sử và lái nó về hướng hy vọng, cho một ngày mai tốt đẹp hơn.
Đã mất thật nhiều thời gian để có được thời điểm này. Nhưng đêm nay, vì tất cả những gì chúng ta đã làm trong cuộc bầu cử, và đúng là thời khắc này, Thay Đổi đã đến với nước Mỹ.

Đồng hành
Lúc chiều tối nay, tôi nhận được lời chúc mừng đặc biệt cảm động qua điện thoại từ Thượng nghị sĩ McCain.
Ông McCain đã có một cuộc vận động tranh cử lâu dài và mạnh mẽ. Ông cũng đã chiến đấu hết sức và bền bỉ hơn cho Tổ quốc yêu quý của chúng ta. Ông cũng đã từng đau đớn vì nước Mỹ ở mức độ mà đa số chúng ta không thể tưởng tượng nổi.
Những thành quả mà chúng ta được hưởng ngày hôm nay là nhờ sự hy sinh, cống hiến, của nhà lãnh đạo quả cảm và quên mình vì đất nước.

Tôi đã chúc mừng ông McCain, tôi cũng chúc mừng Thống đốc Palin về tất cả những gì họ đạt được. Tôi sẽ hợp tác với họ để làm mới lại cam kết về đất nước trong những tháng tới.
Tôi cũng muốn cảm ơn người bạn đồng hành của tôi, người đã vận động cùng tôi với cả trái tim và lên tiếng vì những người mà ông cùng trưởng thành trên đường phố Scranton và cùng đi trên tuyến xe lửa hàng ngày về nhà ở Delaware: phó tổng thống đắc cử của nước Mỹ, Joe Biden.

Tôi cũng không thể đứng ở đây tối nay nếu không có sự ủng hộ không mệt mỏi của người tạo mái ấm cho gia đình tôi từ 16 năm qua, tình yêu của đời tôi và Tân Đệ nhất Phu nhân của nước Mỹ, Michelle Obama.
Hai con Sasha và Malia, bố yêu hai con hơn cả mức các con có thể nghĩ tới, và hai con xứng đáng được một con cún nhỏ vào ở cùng chúng ta trong Tòa Bạch Ốc.

Và dù bà không còn nữa, tôi biết bà ngoại đang chứng kiến giờ phút này, cùng cả gia đình đã sinh ra tôi và giúp tôi nên người. Tôi không bao giờ quên bà và cha mẹ vì biết rằng món nợ này không bao giờ có thể trả nổi.

Với chị Maya, với chị Auma, và tất cả các anh chị em khác của tôi – xin vô cùng cảm ơn mọi người đã hỗ trợ và ủng hộ.
Cảm ơn người phụ trách cuộc tranh cử David Plouffe, vị anh hùng thầm lặng, người đã tạo dựng ra cuộc vận động chính trị tuyệt vời nhất trong lịch sử Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Cảm ơn David Axelrod, cố vấn chiến lược, người bạn đồng hành với tôi trên từng đoạn đường, cảm ơn nhóm vận động tranh cử tuyệt vời nhất trong lịch sử chính trị – các bạn đã tạo ra kỳ tích, và tôi vô cùng biết ơn vì sự hy sinh, lòng tận tụy cho mục tiêu chung.

Chiến thắng của người dân
Nhưng trước hết, tôi sẽ không bao giờ quên chiến thắng này là của ai - đó là chiến thắng của các bạn.
Thực ra từ đầu tôi không phải là ứng viên khả dĩ nhất cho chức vụ này. Cuộc vận động tranh cử khởi sự với rất ít tiền bạc và sự ủng hộ từ các nhân vật danh tiếng.

Cuộc vận động này không được tính toán từ các văn phòng tại Washington mà từ sân nhà ở Des Moines, phòng khách ở Concord và cổng vào nhà ở Charleston.
Chiến dịch này có được là nhờ những người dân phải lục lọi trong túi, lấy những đồng 5 đôla, 10 đôla và 20 đôla quyên góp cho cuộc vận động.

Nó cũng lớn lên, mạnh mẽ lên từ những thanh niên dám bác bỏ tín điều của một thế hệ thờ ơ; những người phải để gia đình đằng sau để đi kiếm việc nơi xa, những công việc đem lại đồng tiền nhỏ bé và kéo ngắn lại các giấc ngủ.
Nó lớn lên từ chính những người không còn trẻ nhưng đi trong giá buốt và nắng gió đến gõ cửa những người xa lạ nhưng thân thiện. Từ hàng triệu người Mỹ tự nguyện tổ chức lại và chứng minh rằng sau hai thế kỷ, chính quyền của dân, do dần và vì nhân dân vẫn còn đó, không bị xóa khỏi mặt đất.
Đây là thắng lợi của các bạn.

Nhiệm vụ trước mắt
Tôi biết các bạn tham gia chỉ để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử này và không làm điều này chỉ vì tôi.
Các bạn vào cuộc vì hiểu rằng nhiệm vụ trước mắt vô cùng lớn.
Ngay cả khi đang ăn mừng tối nay, chúng ta biết các thách thức mà ngày mai sẽ đem lại là lớn nhất trong cuộc đời chúng ta - hai cuộc chiến, một hành tinh đang bị hủy hoại, khủng hoảng tài chính tàn khốc nhất trong cả một thế kỷ.

Ngay cả khi chúng ta đứng ở đây, chúng ta biết có những người Mỹ dũng cảm đang chong đêm trên sa mạc Iraq, trên các rặng núi của Afghanistan, dấn thân vào chốn rủi ro vì chúng ta.
Có những người mẹ, người cha đêm không ngủ, sau khi con cái đã yên giấc vì băn khoăn về tiền vay mua nhà, vì tiền chữa bệnh, hay khoản tiết kiệm để con vào đại học.
Có một luồng sinh khí mới cần nắm bắt, những chỗ làm mới cần tạo ra, những trường học mới cần xây, những đe dọa phải giải quyết và những đồng minh cần vun đắp.

Thay đổi dân tộc
Con đường trước mắt sẽ rất dài. Ngọn núi ta trèo rất dốc.
Chúng ta có thể không đến được điểm cần đến trong một năm, thậm chí trong một nhiệm kỳ nhưng nước Mỹ yêu quý của tôi ơi, tôi chưa bao giờ nhiều hy vọng hơn hôm nay rằng chúng ta sẽ tới đích.

Tôi xin hứa với Tổ quốc: cả dân tộc sẽ đến đích.
Sẽ có sự thoái lui, sẽ có những bước lầm lỡ. Sẽ có cả nhiều người sẽ không đồng ý với mọi quyết định hoạch chính sách tôi đưa ra ở cương vị tổng thống.
Chúng ta cũng biết chính phủ không giải quyết được mọi chuyện. Nhưng tôi sẽ luôn thành thật với tất cả các bạn về các thách thức đối với của chúng ta. Tôi sẽ lắng nghe các bạn, đặc biệt là khi chúng ta bất đồng.

Trên hết và trước hết, tôi sẽ đề nghị các bạn tham gia công việc gây dựng lại nước Mỹ bằng cách duy nhất và đầu tiên từ 221 năm qua trong lịch sử Hoa Kỳ. Đó là cách tái thiết từng ngôi nhà, từng viên gạch bằng từng bàn tay nối nhau.

Một đất nước, một dân tộc
Những gì bắt đầu 21 tháng trước giữa một mùa đông lạnh giá không thể thay đổi trong chỉ một tối mùa thu hôm nay.
Chỉ riêng chiến thắng này chưa phải là Thay Đổi chúng ta thấy. Đây mới là cơ hội cho chúng ta thay đổi. Nhưng không điều gì xảy ra nếu chúng ta trở lại con đường cũ và Thay Đổi không thể có nếu thiếu các bạn, thiếu tinh thần phụng sự và dấn thân.
Hãy huy động tinh thần ái quốc, tinh thần phục vụ và trách nhiệm để mỗi người trong chúng ta vào cuộc, làm việc hết sức và chăm lo không chỉ bản thân mà cả những người xung quanh.

Hãy nhớ rằng nếu cuộc khủng hoảng tài chính này dạy cho chúng ta bài học gì thì đó là chúng ta không thể có một thị trường tài chính (Wall Street) năng động khi người dân bình thường (Main Street) chịu thiệt thòi. Đất nước và nhân dân Hoa Kỳ hoặc sẽ vươn lên, hoặc sụp đổ đều với tư cách một quốc gia, tất cả cùng nhau.

Chúng ta hãy cưỡng lại thói bè phái và sự thiếu chín chắn vốn đã đầu độc nền chính trị nước ta quá lâu. Hãy nhớ rằng chính người từ tiểu bang này là người đầu tiên cầm cờ của đảng Cộng hòa vào Tòa Bạch Ốc. Đảng được xây dựng từ những giá trị tự do, tự chủ và đoàn kết quốc gia.

Đây chính là những giá trị tất cả chúng ta cũng chia sẻ và dù đảng Dân chủ thắng lớn đêm nay, chúng ta khiêm tốn và quyết tâm hàn gắn sự chia rẽ vốn đã kìm chân nước Mỹ.

Như Lincoln nói với một dân tộc chia rẽ còn hơn bây giờ: "Chúng ta không phải là kẻ thù mà là bè bạn, người ta dù có thể ngăn cản tình cảm nhưng không thể cắt đứt sợi dây yêu thương."
Với những người Mỹ mà tôi còn cần phải giành sự ủng hộ, tôi có thể đã không có được lá phiếu nhưng tôi nghe thấy tiếng nói của các bạn và tôi cần các bạn giúp, và tôi sẽ là tổng thống của cả các bạn.

Vị trí của nước Mỹ trong toàn cầu
Với những người đang theo dõi sự kiện đêm nay, từ các nghị viện, lâu đài ở nước ngoài hay chỉ nghe qua radio từ những ngõ xóm bị lãng quên trên thế giới, câu chuyện ở đây tuy chỉ là về nước Mỹ nhưng chúng ta cùng chung một số phận, và bình minh đã ló rạng với sự lãnh đạo của Hoa Kỳ.

Với những kẻ muốn phá hủy thế giới - chúng ta sẽ đánh bại chúng. Những ai yêu chuộng hòa bình và an ninh thì chúng tôi sẽ đứng bên các bạn.
Với những người đang tự hỏi là ngọn hải đăng Hoa Kỳ liệu có còn cháy không thì đêm nay, một lần nữa chúng tôi chứng tỏ cho các vị thấy rằng quyền lực thực sự của nước Mỹ không phải đến từ vũ khí, tiền bạc mà từ sức mạnh dài lâu của lý tưởng dân chủ, tự do, cơ hội và niềm hy vọng.

Bí quyết của nước Mỹ là nước Mỹ luôn có thể thay đổi. Chúng ta có thể hoàn thiện thêm liên hệ của mình. Những gì chúng ta đạt được đem lại hy vọng về điều có thể đạt được cho ngày mai.

Lịch sử đấu tranh
Cuộc bầu cử này có nhiều câu chuyện mới mẻ sẽ còn được kể cho các thế hệ mai sau. Nhưng câu chuyện mà tôi ghi lại trong tim tối nay là về một người phụ nữ cử tri tại Atlanta. Bà cũng giống như hàng triệu người đã xếp hàng bỏ phiếu để tiếng nói của họ được lắng nghe.

Nhưng có một điều khác: Ann Nixon Cooper năm nay đã 106 tuổi.
Bà Cooper ra đời vào thế hệ đầu tiên sau chế độ nô lệ, khi mà xe hơi chưa chạy trên đường, phi cơ chưa bay lên bầu trời. Đó là khi bà chưa được phép đi bầu vì hai lý do - bà vừa là phụ nữ, vừa là người da đen.

Đêm nay, tôi nghĩ về tất cả những gì bà trải nghiệm trong cuộc đời hơn một thế kỷ ở nước Mỹ, về nỗi đau nhói con tim và niềm hy vọng, về cuộc đấu tranh và sự tiến bộ, về những lần người ta nói rằng chúng ta không có quyền làm gì đó, và về những người kiên trì thúc đẩy Niềm tin vào nước Mỹ: Đúng, chúng ta luôn có thể thành công.

Vào thời phụ nữ còn bị buộc phải im lặng, và hy vọng của họ bị xóa tan, bà đã sống để mà thấy họ có thể đứng lên giành quyền bỏ phiếu. Đúng thế, chúng ta luôn có thể thành công.
Khi niềm tuyệt vọng lan ra và nỗi trầm uất bao phủ đất nước, bà đã chứng kiến một dân tộc chiến thắng nỗi sợ hãi với Chính sách Kinh tế Xã hội Mới, việc làm mới và một niềm tin về mục tiêu chung. Đúng thế, chúng ta luôn có thể thành công.
Khi bom rơi xuống Trân Châu Cảng và nền độc tài đe dọa nhân loại, bà đã có mặt để chứng kiến cả một thế hệ đứng dậy, trở thành vĩ đại, và nền dân chủ được bảo vệ. Đúng thế, chúng ta luôn có thể thành công.

Bà đã có mặt ở đó, ở Montgomery, ở Birmingham, và ở Selma khi vị mục sư từ Atlanta nói với mọi người rằng: "Chúng ta sẽ thắng cuộc ". Đúng thế, chúng ta luôn có thể thành công.
Con người đã đặt chân lên Mặt Trăng, Tường Berlin đã sụp đổ, một thế giới đã liên kết lại bằng khoa học và trí tưởng tượng, và năm nay bà đã chạm tay vào màn hình của máy bỏ phiếu. Vì sau 106 năm sống ở Mỹ bà đã qua tất cả thời điểm đen tối nhất, những giờ phút tươi sáng nhất của đất nước, bà hiểu rằng Hoa Kỳ có thể thay đổi. Đúng thế, chúng ta luôn có thể thành công.

Đây là thời điểm của chúng ta
Hỡi Nước Mỹ, chúng ta đã đi một chặng đường xa. Nhiều điều đã xảy ra. Nhưng còn rất nhiều điều phải làm. Đêm nay, chúng ta tự hỏi rằng nếu con cháu chúng ta có sống đến thế kỷ tiếp sau, sống lâu như Ann Nixon Cooper, thì chúng sẽ chứng kiến những thay đổi gì? Những tiến bộ gì sẽ được nhân loại tạo ra?
Đây là cơ hội để chúng ta đáp lại thách thức đó. Đây là thời khắc của chúng ta.

Đây là lúc để mọi người trở về với công việc và mở cửa đón chào cơ hội cho con cháu chúng ta, để phục hồi sự thịnh vượng và cổ vũ cho hòa bình, để giành lại Giấc mơ Mỹ và xác tín sự thật cao nhất rằng chừng nào còn sống chúng ta còn hy vọng.
Dù bị chỉ trích, nhạo báng, nghi ngờ, dù bị người ta nói rằng chúng ta bất lực, chúng ta sẽ đáp lời bằng chính tín điều Mỹ: Đúng thế, chúng ta luôn có thể thành công.

Xin cảm ơn các bạn. Thượng Đế ban phước cho các bạn, và hãy để Thượng Đế ban phước cho nước Mỹ!


Minh Ngoc
Trên cả tuyệt vời! Không chỉ là bộc bạch chân thành dễ đi vào lòng người mà còn là những ngôn từ đầy ấn tượng, trọng lượng của một chính khách lỗi lạc, xuất chúng. Nước Mỹ đã sáng suốt khi chọn Obama. Tôi có linh cảm mạnh mẽ là ông sẽ thành công trong việc mở ra một trang sử mới cho HCQ HK và TG. Bài diễn văn khiến tôi rơi lệ dù ở cách xa nước Mỹ nửa vòng trái đất. Thật tự hào khi HK có được một tân TT như Obama. Kiến thức, tầm nhìn và nhận xét tinh tế, sâu sắc nhưng cũng thật khiêm tốn, nhũn nhặn của ông quả thật đáng ngưỡng mộ, khâm phục.

Ngoài gia đình, đồng nghiệp, không người dân Mỹ nào bị bỏ quên khi ông có cơ hội nói lời tri ân nước Mỹ và cử tri Mỹ, những người giúp tạo nên chiến thắng của ông và ĐDC. Ngay cả những người thuộc phe đối lập không bỏ phiếu cho ông cũng được ông cam kết lắng nghe ý kiến khác biệt của họ. Từ trong sâu thẳm, tôi muốn có ngày tự hào và ngưỡng mộ chính vị nguyên thủ QG của mình như vậy.

Dn Dang Khoa, Nghệ An
Một bài diễn văn chính trị nhưng đã làm tôi rơi nước mắt. Cảm động, cảm kích...và một chút ngậm ngùi cho mình, cho dân tộc mình.


http://img152.imageshack.us/img152/7350/mccain1sz6.jpg


Diễn văn của Thượng nghị sỹ John McCain


Xin cảm ơn các bạn. Cảm ơn các bạn đã dành thời gian tới đây trong một buổi tối đẹp trời ở Arizona.
Các bạn thân mến, chúng ta đã đi tới đoạn chót của một hành trình dài. Nhân dân Mỹ đã lên tiếng, và họ đã nói rõ ý nguyện của mình. Mới cách đây ít phút, tôi đã hân hạnh gọi điện cho Thượng nghị sỹ Barack Obama để chúc mừng ông được bầu chọn làm vị tổng thống tiếp theo của đất nước mà cả hai đều yêu quý.
Trong cuộc đua trường kỳ và khó khăn như thế này, chỉ riêng sự thành công của Thượng nghị sỹ Obama đã khiến tôi cảm thấy kính trọng năng lực và sự bền chí của ông. Việc ông truyền cảm hứng và niềm hy vọng cho hàng triệu người Mỹ, những người đã từng tưởng là mình không có mấy vai trò trong việc bầu chọn tổng thống Mỹ, càng khiến tôi ngưỡng mộ và trân trọng ông.

Đây là một kỳ bầu cử lịch sử. Người Mỹ gốc Phi đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng, đã giành được niềm hãnh diện đặc biệt từ kỳ bầu cử này, và đêm nay chính là đêm của họ.

Tôi luôn tin rằng nước Mỹ là nơi dành cho những ai có ý chí và biết cách nắm bắt cơ hội. Thượng nghị sỹ Obama cũng tin như thế.
Nhưng cả hai chúng tôi đều thấy rằng dẫu đã vượt qua được một chặng dài từ những bất công trong quá khứ, điều vốn làm hoen ố đất nước và từng khước từ quyền công dân của một số người Mỹ, thì ký ức về một quá khứ bất công vẫn còn khiến chúng ta đau đớn.

Một thế kỷ trước, việc Tổng Thống Theodore Roosevelt mời Booker T. Washington tới ăn tối tại Toà Bạch Ốc đã khiến nhiều người phẫn nộ. Nước Mỹ ngày nay là một thế giới khác xa với cái thời mù quáng, mông muội và phũ phàng đó.
Không có bằng chứng nào hùng hồn hơn việc một người Mỹ gốc Phi được bầu và trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Không có lý do nào khiến mỗi công dân Mỹ ngưng nuôi ước mơ tại quốc gia này, quốc gia vĩ đại nhất thế giới.

Điều vĩ đại
Thượng nghị sỹ Obama đã làm được một điều vĩ đại cho bản thân và cho Tổ quốc. Tôi xin ca ngợi ông về kỳ tích này.
Tôi cũng xin chân thành chia sẻ niềm tiếc nuối khi mà người bà thân yêu của ông Obama đã không được tận mắt chứng kiến niềm vui ngày hôm nay, dẫu biết rằng linh hồn bà đang được yên nghỉ thanh thản và bà hẳn rất hãnh diện về người cháu tài giỏi mà bà đã nuôi dậy.

Tôi và Thượng nghị sỹ Obama đã có những khác biệt, chúng tôi từng tranh luận với nhau và ông ấy nổi trội hơn.
Chắc chắn chúng tôi vẫn còn nhiều điểm khác biệt. Đây là những thời khắc khó khăn của đất nước, và tối hôm nay, tôi cam kết sẽ làm tất cả những gì có thể để ủng hộ ông Obama dẫn dắt đất nước vượt qua những thách thức trước mắt.

Tôi kêu gọi các bạn, những người đã ủng hộ tôi, nay hãy cùng tôi không chỉ chúc mừng ông Obama mà hãy trao cho vị tổng thống mới niềm tin và những nỗ lực nhiệt thành nhất của chúng ta, để cùng tìm hướng đi chung, để đạt những nhượng bộ cần thiết, để làm cầu nối giữa những khác biệt, và để chung sức vun đắp lại sự phồn vinh của đất nước; để bảo vệ chúng ta trước một thế giới đầy hiểm nguy, và để lại cho con cháu một đất nước mạnh mẽ hơn, tốt đẹp hơn những gì chúng ta được kế thừa.
Bất kể có những khác biệt lớn đến đâu thì chúng ta cũng đều là người dân Mỹ. Xin hãy tin rằng với tôi, không có mối ràng buộc nào có ý nghĩa lớn lao hơn thế.

Đêm nay, nếu chúng ta có phảng phất cảm giác thất vọng thì cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng ngày mai chúng ta phải vượt qua tâm trạng đó để hợp tác với nhau, đưa đất nước đi lên. Chúng ta đã chiến đấu rất kiên cường. Dẫu chúng ta không giành được chiến thắng, nhưng đó là lỗi của tôi, không phải của các bạn.

Lời cảm ơn
Tôi vô cùng biết ơn tất cả các bạn về sự ủng hộ cao quý và về tất cả những gì các bạn đã làm cho tôi. Thưa các bạn, tôi ước gì chúng ta đạt được một kết quả khác. Cùng nhau trải qua một chặng đường đầy khó khăn từ những bước đi đầu tiên, sự ủng hộ và tình cảm của các bạn dành cho tôi chưa bao giờ dao động. Không lời nào có thể bày tỏ hết sự biết ơn sâu sắc của tôi đối với các bạn.

Tôi vô cùng biết ơn vợ tôi, Cindy, các con, mẹ tôi và toàn bộ gia đình, cùng rất nhiều bạn bè thân hữu, những người đã sát cánh bên tôi qua những thăng trầm của chiến dịch tranh cử kéo dài này. Tôi luôn là một người may mắn. Chiến dịch này chính là thời kỳ may mắn nhất khi mà tôi nhận được những tình cảm và sự động viên khuyến khích nhiều đến thế.

Có lẽ các bạn cũng biết, các chiến dịch vận động tranh cử thường khiến gia đình gặp nhiều khó khăn hơn là chính các ứng viên, và điều này hoàn toàn đúng trong lần này. Tất cả những gì tôi có thể bù đắp lại cho gia đình chỉ là tình yêu thương và lòng biết ơn vô hạn, cùng lời hứa là chúng tôi sẽ có những năm tháng bình yên bên nhau trong tương lai.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Thống đốc Sarah Palin, một trong những người vận động tranh cử xuất sắc nhất mà tôi từng biết, một tiếng nói mới đầy ấn tượng trong đảng của chúng ta, tiếng nói kêu gọi cải tổ và tuân thủ những nguyên tắc cơ bản, vốn luôn là sức mạnh của chúng ta.

Phu quân của bà, ông Todd, cùng năm người con dễ thương của họ và sự cống hiến không mệt mỏi họ dành cho chúng ta. Sự can đảm và quyến rũ của họ đã được thể hiện qua chiến dịch vận động tranh cử tổng thống đầy sóng gió này. Chúng ta sẽ rất hào hứng dõi theo sự cống hiến mà Palin sẽ dành cho Alaska, cho Đảng Cộng Hòa và cho Tổ quốc.

Tôi xin cảm ơn toàn bộ các thành viên tham gia chiến dịch vận động tranh cử, từ Rick Davis, Steve Schmids và Marke Salter tới từng tình nguyện viên, những người đã chiến đấu thật kiên cường, quyết liệt tháng này qua tháng khác trong cuộc đua có thể coi là thách thức nhất thời đại này. Với tôi, sự thất bại trong bầu cử không bao giờ quan trọng bằng niềm vinh hạnh được các bạn gửi gắm niềm tin và tình đồng đội.

Tôi không biết chúng ta lẽ ra đã phải làm gì để giành chiến thắng. Tôi sẽ để người khác lên tiếng phán xét. Ứng viên nào cũng mắc phải sai lầm; tôi chắc chắn cũng vậy thôi. Nhưng tôi sẽ không giành ra dù chỉ một giây chỉ để tiếc nuối về những gì đã xảy ra.

Chiến dịch này đã và sẽ là niềm vinh dự to lớn trong cuộc đời tôi. Trái tim tôi tràn ngập lòng biết ơn về những gì đã trải qua, về việc nhân dân Mỹ đã cho tôi một cơ hội công bằng trước khi quyết định trao cho Thượng nghị sỹ Obama và người bạn cũ của tôi, Thượng nghị sỹ Joe Biden niềm vinh dự được dẫn dắt chúng ta trong bốn năm tới.

Tôi sẽ không xứng đáng là một người Mỹ nếu như cứ nuối tiếc về việc số phận đã cho tôi niềm vinh hạnh vô cùng lớn lao là được phụng sự Tổ quốc trong suốt nửa thế kỷ.

Ngày hôm nay, tôi là ứng viên cho vị trí nắm trọng trách to lớn nhất ở một đất nước mà tôi vô cùng yêu thương. Và đêm nay, tôi vẫn là người phụng sự tổ quốc. Đó là điều quan trọng nhất cho mỗi cá nhân, và tôi xin cảm ơn người dân Arizona về điều này.
Đêm nay, hơn bao giờ hết, tôi xin giữ trong trái tim tình yêu thương đất nước, yêu thương công dân nước Mỹ, bất kể đó là người đã ủng hộ tôi hay ủng hộ Thượng nghị sỹ Obama.

Tôi xin có lời chúc thành công tới người từng là đối thủ nhưng nay sẽ trở thành tổng thống của tôi.
Tôi kêu gọi toàn bộ nhân dân Mỹ, như tôi thường nói trong quá trình vận động, là đừng thất vọng về những khó khăn hiện tại của chúng ta. Hãy luôn tin tưởng vào triển vọng và sự vĩ đại của nước Mỹ, bởi không gì là không thể ở đất nước này.
Người Mỹ không bao giờ bỏ cuộc. Chúng ta không bao giờ đầu hàng. Chúng ta không trốn tránh lịch sử; chúng ta làm nên lịch sử.
Xin cảm ơn các bạn. Chúa phù hộ các bạn. Chúa phù hộ nước Mỹ. Xin cảm ơn.


Minh Ngoc
Thêm một bài diễn văn không kém sức lôi cuốn của đối thủ bại trận. Tính thẳng thắn, cao thượng, lòng vị tha, sự công bằng và óc phóng khóang, cầu tiến rất đặc trưng ở đại đa số người Mỹ đã cấu thành tinh thần Mỹ và tính cách Mỹ. Nước Mỹ xứng đáng để tự hào về sự vĩ đại này. Obama và McCain là những tiêu biểu. Khi ganh đua giành chiến thắng thì không ai nhường ai. Khi kết quả ngã ngũ, ý nguyện người dân đã rõ ràng thì tinh thần và tinh cách Mỹ là trên hết. Tổ quốc đi đầu. Bất cứ người Mỹ thực thụ nào cũng có lý do để tự tự hào về nước Mỹ vĩ đại của mình như là tác giả.

Tan Nguyen, Saigon
Sao tôi thấy bài diễn văn của người thành công cũng như kẻ thất bại đều hay vô cùng. Nếu BBC có tổng hợp được những bài diễn văn của các nguyên thủ Việt Nam cùng các nước khác để bạn đọc & giới trẻ so sánh thì tuyệt hay. Tôi đặc biệt thích câu này của ông McCain "Chúng ta không trốn tránh lịch sử; chúng ta làm nên lịch sử."

Tu Nguyen, USA
Đọc bài này tôi chỉ có một ước mơ, ước gì người Việt Nam cũng có "tinh thần" như thế.

Quý Phi
21-12-2008, 10:58
Dự định góp vui bằng bài thơ sưu tầm từ hơn hai mươi năm trước.
http://img367.imageshack.us/img367/1162/biengioiqo2.jpg


Ở đây chỉ có hai mùa
Nắng không có nước còn mưa rừng lầy
Những người lính chốt ở đây
Nghe thời tiết đổi từng ngày trên da

Ở đây làng ở rất xa
Nên thèm nghe một tiếng gà đổi canh
Lắm khi nỗi nhớ vô hình
Bỗng làm người lính lặng thinh cả chiều

Lòng người ngang dọc thương yêu
Nhớ nhà nhưng chẳng nói điều ấy đâu
Ở đây đồng đội với nhau
Mái đầu bạc với mái đầu còn xanh
Người qua ba cuộc chiến tranh
Mà chưa nói được cho mình chữ yêu

Ở đây giặc giã còn nhiều
Đêm căng như sợi dây neo con tầu
Ở đây ác liệt dài lâu
Cho ta ràng buộc với nhau suốt đời

Bạn tôi tuổi quá bốn mươi
Đã quên mình bước qua thời con trai
Nhớ thương – ngày ngắn đêm dài
Màu xanh mái tóc lén phai trên đầu
Đi hoài chẳng kịp nghĩ đâu
Chợt khi nhớ đến nhìn nhau giật mình

Ngày mai qua cuộc chiến tranh
Những ngày hiện tại sẽ là xa xưa
Những ngày gian khổ bây giờ
Sẽ là kỷ niệm riêng cho đời mình
(1985)

http://img247.imageshack.us/img247/2559/biengioi1gr3.jpg

Quý Phi
14-01-2009, 14:22
http://img294.imageshack.us/img294/8634/01020134049200ae8.jpg

MỘT CÁCH NHÌN VỀ ÔNG BUSH

Hôm 3.1.2009, trong một bài phân tích dưới đầu đề “Analysis: Bush's personality shapes his legacy”, ký giả Ben Feller của hảng AP đã viết về ông Bush như sau:

Sau này, Tổng Thống George W. Bush sẽ được xét đoán bởi những gì ông đã làm. Ông cũng sẽ được nhớ đến bởi cá tính của ông: một người lanh lẹ, một người gốc Texas sử dụng từ ngữ lộn xộn nhưng lúc nào cũng lạc quan, ngay trong lúc cả nước chẳng được như vậy.

Trong tám năm, đất nước Hoa Kỳ đã được lãnh đạo bởi một người thích ra sân dọn dẹp bờ bụi trong cái nắng nóng chói chang gay gắt và đạp xe ào ào qua cánh rừng. Ông thích đặt tên hiệu cho các nhà lãnh đạo thế giới, và dành cho vị nữ thủ tướng Đức một cuộc xoa bóp bất ngờ, có lẽ chỉ được đón nhận miễn cưỡng, trên cổ của bà ta. Ông khó chịu khi phải chờ đợi và luôn theo đúng chương trình của mình. Ông luôn giữ thái độ lạc quan ngay cả trong tình huống khó khăn nhất, nhưng cũng sẵn sàng nhỏ lệ dù trước công chúng. Ông cũng chẳng dành thời giờ để tìm hiểu về chính mình, và mãi đến thời gian gần đây mới khởi sự nhìn lại chặng đường đã đi qua.

Cách thức điều hành và tính khí của ông đã ảnh hưởng nhiều đến di sản không thua gì các quyết định của ông trong thời gian qua.

Chính sách ảnh hưởng đến đời sống con người, nhưng cá tính để lại những hình ảnh không quên, cả tích cực lẫn tiêu cực.

Dù thế nào chăng nữa, đó là những hình ảnh đặc thù về ông Bush.

Không được trễ.

Tổng thống Bush đòi hỏi sự đúng giờ và ghét sự không hiệu quả. Mỗi cuộc họp phải có một mục đích rõ ràng. Và không nên lập lại những gì mà ông đã biết.

Ông dậy sớm và thường bắt đầu làm việc ở Văn Phòng Bầu Dục (Oval Office) vào lúc 6 giờ 45 sáng. Đến 9 giờ 30 hay 10 giờ tối là ông đi ngủ. Ông muốn tỉnh táo khi thức dậy và không muốn bị mất giấc ngủ của mình.

Trong các cuộc họp với các chuyên gia về chính sách, Tổng Thống Bush thường hỏi những câu hỏi về ngay điểm chính yếu của một vấn đề phức tạp. Các phụ tá của ông đã lấy làm tiếc là người dân trong nước không bao giờ biết được sự sáng suốt đó của ông, ngay cả sau tám năm cầm quyền. Họ miêu tả ông là một người luôn tìm hiểu kỹ càng sự việc chứ không có cái nhìn hời hợt như phần lớn thế giới nghĩ về ông.

Khi tổng thống Bush muốn có câu trả lời, người được hỏi không nên phỏng đoán.

“Ông có thể nhìn ra điều này ngay lập tức, nếu bạn không nắm vững vấn đề,” theo giám đốc thông tin Tòa Bạch Ốc Kevin Sullivan.

Những người khác có thể viết diễn văn cho tổng thống Bush đọc, nhưng ông sẽ loại bỏ những câu mà ông nghĩ rằng đi ra ngoài một tiến trình hợp lý. Đó là sự kỷ luật của Tổng Thống Bush.

Bạn có thể nhận ra những vấn đề Tổng Thống Bush quan tâm, vì ông nói về những điều này một cách khác hơn, nhiệt thành hơn: đó là giáo dục, giúp ngăn ngừa bệnh AIDS, tự do. Đây là những vấn đề có thể nhìn thấy rõ ràng hơn qua lăng kính của đạo lý. Đó là cách Tổng Thống Bush nhìn thế giới quanh mình.


http://img294.imageshack.us/img294/1159/01020134047900ld3.jpg

Tổng Thống Bush đọc Kinh Thánh thường xuyên. Thêm một điều ông cũng thường xuyên làm: thể dục thể thao. Ông dành thời giờ để luyện tập ít nhất sáu ngày trong tuần, dù là ở nơi nào. Và ông tập rất hăng hái, đặc biệt là khi ông leo lên chiếc xe đạp leo đồi vào mỗi cuối tuần, khi ông khiến các nhân viên mật vụ theo bảo vệ phải cố gắng hết sức mới theo kịp ông. Ông là người có tinh thần tranh đua và muốn ở trong vị thế chỉ huy.

Ngay cả việc ăn uống cũng được nhìn với một mục tiêu rõ ràng.

Tổng thống Bush muốn thức ăn trưa của ông sẵn sàng khi ông sẵn sàng để ăn, và ăn nhồm nhoàm thật nhanh. Sự ưa thích của ông cũng rất rõ ràng: có thể là lát bánh mì có mật ong trét đậu phọng (peanut butter and honey sandwich) hay bánh mì kẹp thịt (burger). Cựu đầu bếp chánh Tòa Bạch Ốc Walter Scheib học được một điều là không bao giờ sửa soạn bánh mì cho ông Bush mà không có một chút mù tạc của Pháp.

Người đến từ vùng đất của dân cao bồi với giầy ủng này lại ra lệnh cho mọi người phải ăn mặc đàng hoàng khi vào Tòa Bạch Ốc. Không có chuyện mặc quần jean khi vào khu vực Cánh Tây (West Wing) của tòa nhà. Và vào trong Văn Phòng Bầu Dục là phải có cà vạt và áo vest bên ngoài.

“Sự thứ tự trong tiến trình làm việc cho ông sự mạnh dạn,” theo lời Peter Wehner, một cựu phụ tá của tổng thống Bush và hiện là một viên chức cao cấp tại trung tâm nghiên cứu về Đạo Đức và Chính Sách Công Chúng (Ethics & Public Policy Center).

Và khi đứng trước mặt Tổng Thống Bush, bạn nên tắt máy điện thoại của mình. Thật đáng tội cho người nào phải chịu đựng cái nhìn gườm gườm của Tổng Thống Bush khi chiếc máy Blackberry của họ reng lên không đúng lúc.

Văn phạm trong ngôn từ Tổng Thống Bush sử dụng đôi khi cứ rối tung lên. Thí dụ như khi muốn nói là đã nói chuyện với các gia đình có người thiệt mạng trong cuộc chiến, ông lại nói rằng “I talk to families who die”—có nghĩa là “tôi nói với các gia đình đã chết”. Ông thỉnh thoảng cũng thêm chữ ‘s” vào các danh từ số nhiều như “childrens do learn when standards are high.” Những điều này đã tạo ra những hình ảnh không hay về vị tổng thống tốt nghiệp từ trường đại học danh tiếng Yale ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những người đã nói chuyện riêng tư với ông: các nhà báo, sử gia, những người tranh đấu... lại có một hình ảnh rất khác biệt về một người mà họ coi là có sự suy nghĩ rất tỉ mỉ.

Tổng thống Bush thích gọi người khác bằng tên hiệu mà chính ông chọn cho họ. Các ký giả, thành viên nội các, các nhà lãnh đạo thế giới—ông đặt tên hiệu (nick name) cho tất cả mọi người. Điều này thường tạo ra một sự thân thiện giữa tổng thống và người chung quanh và Tổng Thống Bush thích như vậy.

Tổng Thống Bush có thể cho thấy sự nóng nảy và không kiên nhẫn. Nhưng nếu ông là người không chịu bị chỉ trích—và ông thường xuyên bị chỉ trích—ông đã không cho thấy điều đó.

Khi cựu tùy viên báo chí Tòa Bạch Ốc Scott McClellan víêt một cuốn sách chỉ trích thậm tệ sự lãnh đạo của Tổng Thống Bush, ông đã nói với các cố vấn cao cấp là hãy bỏ qua điều này.

“Hãy kiếm một cách nào đó để tha thứ, vì đó là cách bạn sống trong đời,” tùy viên báo chí Tòa Bạch Ốc hiện nay là Dana Perino đã kể lại lời khuyên Tổng Thống Bush dành cho bà.

Tổng Thống Bush nhất định giữ sự lạc quan, cho dù số phần trăm người dân Mỹ ủng hộ ông xuống thấp đến đâu.

“Mỗi ngày đều là một ngày vui vẻ,” ông cho hay mới đây, diễn tả một trong những thời đại tổng thống khó khăn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

Những lúc đau lòng nhất cho ông là những khi ông gặp gia đình của các binh sĩ tử trận trong cuộc chiến mà ông đã gửi họ đi. Hay khi ông gặp các thương binh. Nhiều người nói với ông là họ muốn được quay trở lại chiến trường. Ông đã rất cảm động về những hy sinh này.

Tổng Thống Bush đã có lần cho hay: “Tôi nhiều lần khóc khi ở trong nhiệm vụ này,”

Tổng thống Bush không phải là người thích tiệc tùng, hội hè. Ông và bà vợ cũng đến nhà các bạn nhưng không lui tới nhà hàng hay những nơi nhộn nhịp khác ở Washington. Các phụ tá của ông nói rằng ông không muốn những hoạt động bảo vệ an ninh cho mình làm phiền công chúng.

Đó cũng là lý do tại sao ông thường có các chương trình làm việc nhanh chóng ở ngoại quốc. Ngay cả ở những nơi có phong cảnh đẹp đẽ nhất, Tổng Thống Bush cũng không dành thời giờ du ngoạn mà đi thẳng vào công việc, tạo thêm sự hiểu lầm là ông chẵng muốn tìm hiểu gì về thế giới bên ngoài.

Ông Bush nói: “Tôi là người thích ở trong ổ.”

Thật là không nơi nào bằng trang trại thân thương của ông Crawford, tiểu bang Texas. Trong tám năm cầm quyền, ông đã dành khoảng một năm ở trang trại này.

Ông chặt cây, làm sạch bờ bụi, làm đường đạp xe đạp. Sức nóng của mùa hè không làm ông mệt mỏi mà lại tạo sự hứng khởi. Ông giải trí bằng cách đọc sách, thường là sách lịch sử Hoa Kỳ và thế giới. Ông cũng thích xem các phim diễu trinh thám như loạt phim “Austin Powers”. Ông dành thời giờ nghỉ ngơi với vợ.

Chẳng bao lâu nữa ông sẽ có nhiều thời giờ riêng cho mình.

Ôâng Bush nói: “Tôi rời khỏi chức vụ tổng thống ngẩng cao đầu với sự hãnh diện.”

Và ông cũng sẽ để lại nhiều điều để mọi người nhớ tới.
(Lữ Giang)

acaxomcui
15-01-2009, 09:50
Suốt 1 đêm,mình xem lại diển biến Quán Văn Chương .
Thấy thương ông Tố Hửu.Thương rằng :
Theo Đảng. . . .,
Nghe Bác . . . . .

Sáng dậy,buồn ngũ quá, quên hết !

Mấy bác ơi,phong lớn quá ,xem bài vất vả vô cùng !

hana1001
20-03-2009, 12:39
trời, thơ phú dài quá ta. ĐỌc mỏi cả cổ. mà vẫn thik :D

lennel
09-04-2009, 16:52
.không biết như thế nào mới đúng chủ đề topic ..

len chỉ suutam theo sở thích thôi nhen ..




Trần Hòa Bình





- là chuyên gia gỡ rối tơ lòng cho hàng vạn trường hợp éo le trong đời sống tình cảm nhưng
Tầm thư - nhà thơ, nhà báo, nhà giáo
Trần hòa Bình nhận mình cũng chỉ là: "mảnh vỡ của một vì sao buồn"!

http://img444.imageshack.us/img444/7278/images704485tranhoabinhdk6.jpg (http://imageshack.us)

học ở trường quê nhưng thi đỗ liền ba trường đại học với điểm cao chót vót.
Bài thi môn văn học năm đầu của trường đại học sư phạm hà nội,
anh còn "liều mạng" viết thêm phần phê phán
hội đồng ra đề thi "không hay, không sắc"
Khiến cả hội đồng chấm thi xôn xao phải họp bàn mà cuối cùng vẫn chấm điểm... 10,5!

Một lần lang thang trên đồi vắng,
Chiếc lá vàng nào đã vô tình rơi để chàng thi sĩ đa tình chỉ trong 10 phút bật ra bài thơ
Thêm một
Được bao thế hệ sinh viên chuyền tay nhau đọc

http://img444.imageshack.us/img444/6022/images706845themmotrs6.jpg (http://imageshack.us)


Có lẽ cái mà anh giàu nhất là tấm lòng:
Anh đã từng cưu mang hàng chục sinh viên sa cơ lỡ vận.
Phải chăng nhờ vậy mà tất cả họ giờ đây đều đã trưởng thành,
Có công việc ổn định. điều quan trọng nhất là họ
đều trở thành những người tử tế,
Không ít trong số họ nay là những nhà báo nổi tiếng.

Chia ly rồi cháy mãi suốt đời không?

Trong phiên toà xử li hôn của vợ chồng Trần hoà Bình,
Viên thẩm phán vô cùng ngạc nhiên khi anh chấp nhận tất cả những điều kiện khác
Chỉ để được quyền nuôi cô con gái nhỏ.
Anh nói: "có nuôi con, tôi mới trở thành người tử tế!
Không phải tôi sinh ra con tôi mà là con tôi sinh ra tôi!"


"khi lặn sâu vào nỗi buồn của mình,
Tôi sẽ chạm được vào nỗi buồn của người khác
Và đó chính là khởi đầu cho một sự thấu hiểu và cảm thông..."



Bước vào cảnh gà trống nuôi con ở căn phòng tập thể chỉ 20m2 mà sao nó mênh mông, huếch hoác.
Anh vừa làm bố vừa làm mẹ khi mà từ nhỏ đến lúc ấy chỉ biết ăn học và nghiện sách
Đến mức lúc nào cũng phải "cặp kè" với cặp kính mấy đi-ốp!

Anh đã hết sức lúng túng, không biết bắt đầu cuộc sống mới thế nào.
Hàng xóm bảo, cậu nên bắt đầu từ cái chạn bát! Và trần hoà bình đã bắt đầu như thế.
Ngày ấy, có lần anh phải tháo cả cái đồng hồ đeo tay để xem giờ lên lớp đi đặt lấy tiền mua sữa cho con...

Bây giờ, con gái anh đã là sinh viên
Nhưng anh vẫn không thể nào quên được cái lần khi cô bé mới vào lớp một:
"Điền xong phần họ và tên bố... đến phần họ và tên mẹ, nó đặt bút sững người lại,
Rồi ngước đôi mắt thơ ngây mà nhuốm buồn nhìn tôi...
Tôi nhìn con mà thương kinh khủng!"
- mắt anh nhìn ra hàng cây ven đường mùa này lá bắt đầu xào xạc...

.















.

lennel
18-04-2009, 20:52
đại văn hào Pháp Victor Hugo
http://img508.imageshack.us/img508/8360/news37361ny2.jpg (http://imageshack.us)



Một lần đại văn hào Pháp Victor Hugo đi thăm nước Phổ. Khi đến biên giới Pháp ố Phổ. Một nhân viên hải quan nước Phổ hỏi:

- Xin ông cho biết ông làm nghề gì?

- Tôi viết.

- Tôi muốn hỏi ông sinh sống bằng nghề gì?

Lần này Hugo đáp gọn:

- Bằng ngòi bút.

Nhân viên hải quan nọ gật đầu ra vẻ thông hiểu. Sao đó anh ta ghi vào tờ thị thực nhập cảnh: "Hugo, nhà kinh doanh ngòi bút".

o0o

Dấu hiệu của sự nổi tiếng


Có người hỏi Victor Hugo:
- Xin ông cho biết liệu trong đời ông có dấu hiệu nào báo trước sự nổi tiếng của ông trong tương lai?
- Có đấy - nhà văn đáp - một lần tôi trở về nhà rất muộn. Tôi cho xe ngựa dừng lại cạnh cổng và bấm chuông. Song không hiểu sao gia nhân không ra mở cửa, mà tôi thì lúc ấy rất buồn đi tiểu. Không còn cách nào khác, tôi đành đứng tiểu tiện ngay cạnh cổng. Vừa lúc đó có một người đi qua, nhìn thấy tôi đang làm việc ấy ông ta quát:
- Đồ lợn! Sao dám đái ngay trước cửa nhà Victor Hugo!

lennel
10-05-2009, 07:27
Lỗ Tấn, nhà văn Trung Quốc.

Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, sinh ngày 25-9-1881, tại phủ Thiệu Hưng, Triết Giang, Trung Quốc.
Ông sáng tác từ những năm 1900. Năm 1927, ông tập trung hết sức lực vào việc tổ chức và lãnh đạo phong trào văn học cách mạng,
hướng dẫn giúp đỡ những người viết văn trẻ tuổi.
Năm 1930, liên minh các nhà văn cánh tả thành lập,
Lỗ Tấn đứng ra chủ trì và chiến đấu ngoan cường để bảo vệ nền văn học vô sản còn non trẻ.
Ông trở thành người thầy của nền văn học vô sản Trung Hoa.

Thuộc trường phái Văn học Hiện đại. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm : Nhật ký người điên, AQ. chính truyện, Gào thét, Cố hương...

Ông mất vào ngày 19-10-1936.

Bài viết dưới đây của tác giả Phạm Tú Châu, đăng trên tạp chí Nhà Văn số 4/2007...



Hai người phụ nữ trong đời Lỗ Tấn


Trong những truyện ký về cuộc đời Lỗ Tấn, có một số cuốn viết những điều mà ai cũng đã biết,
chỉ riêng cuốn "Tam nhân hành Lỗ Tấn, Hứa Quảng Bình và Chu An" của Tăng Trí Trung là có ý mới về đời tư của ông,
từ đó cho thấy tia sáng rực rỡ không những toát lên từ Lỗ Tấn mà còn từ hai người vợ của ông.

http://tbn0.google.com/images?q=tbn:LLrZG-_O38vEpM:http://www.hue.vnn.vn/dataimages/original/images99885_lotan.jpg
Nhà văn Lỗ Tấn

Ba người ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau làm nên tình cảm rất đặc thù giữa những người trong gia đình Lỗ Tấn.
Trước kia tình cảm này là khu cấm, không được viết
nhưng bây giờ cuốn truyện ký nói trên có thể cho thấy tình cảm đặc thù ấy đã góp phần bồi dưỡng nhân tính của cả ba người.

Riêng về danh phận của Hứa Quảng Bình và Chu An, theo cách nhìn của người đời,
Chu An mới làm lễ cưới với Lỗ Tấn, bà là người vợ “kết tóc xe tơ”, có cưới treo chính thức của ông.
Thế thì danh phận của Hứa Quảng Bình là gì?
Ba tháng sau khi Lỗ Tấn qua đời,
một số bạn của ông trong giới văn hóa Thượng Hải định in một cuốn sách để kỷ niệm ông.
Trong sách đó không thể thiếu một bản Niên biểu về Lỗ Tấn.
Họ quyết định phần năm Dân quốc trở về trước do em ruột của ông là Chu Tác Nhân viết,
phần ở Thượng Hải do Hứa Quảng Bình viết, cuối cùng Hứa Thọ Trường biên tập chung.
Hứa Thọ Trường cho rằng nên viết đúng sự thực về cuộc hôn nhân và tình yêu trong đời Lỗ Tấn,
ông đã gửi cho Hứa Quảng Bình một bức thư, trong đó viết:
“Trong Niên biểu không thể không ghi việc Lỗ Tấn kết hôn với nữ sĩ Chu An, mong chị thông cảm”.

Trong bản thảo đầu tiên,
Niên biểu viết: “Tháng 6 năm thứ sáu trước Dân quốc về nhà kết hôn với nữ sĩ Chu An người Sơn Âm.
Dân quốc năm 16, kết đôi với nữ sĩ Hứa Quảng Bình bằng tình yêu, trở thành bạn đời”.

Nhận bản thảo Niên biểu đầu tiên ấy,
Hứa Quảng Bình gửi ngay bản viết của mình kèm theo bức thư gửi ông Hứa Thọ Trường lúc ấy đang ở Bắc Kinh:
“Hứa tiên sinh cho thanh minh mấy lần về việc nữ sĩ Chu An được viết chân thực trong Niên biểu.
Thực ra tôi không đến nỗi nhỏ nhen như thế. Lẽ nào ánh mắt của nhà sử học lại có thể bỏ qua dấu vết cũ ấy?
Vế mối quan hệ giữa tôi và tiên sĩ Lỗ Tấn,
chúng tôi cho rằng giữa chúng tôi tình đầu ý hợp, đối xử vơi nhau như đồng chí, tương thân tương kính,
tin cậy lẫn nhau, bởi vậy không cần đến bất kỳ một thói tục nào. Chẳng phải chúng tôi đều chủ trương đả phá mọi lễ giáo cũ đó sao?”.

Hứa Quảng Bình không bao giờ quên điều đó,
vì thế bà khuyên ông thày mình là Hứa Thọ Trường không cần dùng hai câu đầy ý tốt
“kết đôi bằng tình yêu, trở thành bạn đời”. Trong bản thảo của mình, bà viết thẳng ra là:
“Năm Dân quốc 1, sống chung với Hứa Quảng Bình”. Nhận được thư, Hứa Thọ Trường vui vẻ đồng ý ngay,
nhưng vì để nhất trí với thể lệ chung của cuốn sách, ông đổi thành: “Năm Dân quốc 16,
sống chung với Hứa Quảng Bình người Phiên Ngung”.

Chúng ta hẳn còn nhớ, ở thời đại đặc định đó,
Chu An và Lỗ Tấn đều là “vật hy sinh”cho lễ giáo phong kiến.
Hứa Quảng Bình vì phản kháng xã hội cũ, muốn cùng Lỗ Tấn đứng chung trên một chiến tuyến dể cùng chiến đấu nên mới kết đôi với ông.
Chính vì có nhận thức ấy, Hứa Quảng Bình mới dám dùng ánh mắt của nhà sử học để nhận định về đoạn đời này,
dũng cảm và phóng khoáng hơn hẳn ông thày Hứa Thọ Trường.
Đồng thời, nhìn từ một góc độ khác, chính vì bà rất yêu Lỗ Tấn,
yêu rất chân thành nên bà không cần so đo một chút nào.

Năm 1947 Chu An ốm (rồi mất) ở Bắc Kinh.
Bà đã từ chối nhận tiền trợ cấp của Chu Tác Nhân mà bằng lòng nhận tiền trợ cấp của Hứa Quảng Bình, bà nói:
“Bà Hứa đối với tôi rất tốt, bà ấy hiểu được tôi đang nghĩ gì.
Bà ấy nhận việc duy trì cuộc sống cho tôi,
thường xuyên gửi tiền đến. Bà Hứa quả là người tốt”.

Còn Hứa Quảng Bình thì chẳng những giúp đỡ bà Chu về mặt kinh tế
mà còn rất thông cảm với cảnh ngộ của bà Chu.
Tròn một năm ngày mất của bà Chu An, trong một bài tản văn,
Hứa Quảng Bình viết: “Lỗ Tấn vốn có bà phu nhân họ Chu…
Bà tên là An, các bậc bề trên về đằng mẫu thân bà thường gọi bà là An Cô”.
Câu cuối cùng này chứa đầy tình cảm và là một nét bút rất tế nhị trong cả bài tản văn.

Lúc này là sau ngày Lỗ Tấn mất đã hơn mười năm.
Ông đã để lại hai “vị vong nhân”.
Thời buổi chiến tranh ly loạn, người trên miền Bắc, người dưới miền Nam
song đều quan tâm tới nhau là điều hiếm có.
Người đọc không thể không đồng ý với lời ghi nhận của tác giả cuốn Tam nhân hành:

“Sự đời dằng dặc, đời người bể dâu,
người đầu tiên ghi lại họ tên của nữ sĩ Chu An trong tác phẩm của mình lại chính là bà Hứa Quảng Bình”.
Câu đó cũng còn để nói, trong những ngày hiu quạnh của Chu An,
người đầu tiên dành cho Chu An niềm thương yêu và lòng tôn trọng chính là Hứa Quảng Bình,
người dường như là về danh phận có mối xung đột khó có thể ai nhường cho ai theo thói thường.

[

acaxomcui
10-05-2009, 08:22
Cãm ơn lennel!đọc lại những đỉnh cao thế giới thấy mình bé nhỏ quá.

Bé đến nổi cúi mặt xuống luôn!

dly
11-05-2009, 18:25
http://img74.imageshack.us/img74/6057/8439613lg.jpg (http://img74.imageshack.us/my.php?image=8439613lg.jpg)




Bé đến nổi cúi mặt xuống luôn!

Ngẩng lên được mới lạ
:lick: :lick: :lick:

acaxomcui
25-06-2009, 12:52
Ghé quán văn chương ..làm một ly.
Trăng thanh gió mát ..thơm mùi mực.
Quê hương cạn nước..trời trong vắt!
Thả mất hồn thơ..áng mây bay!

lennel
10-07-2009, 15:29
http://www.youtube.com/watch?v=nFr3raWHo64&feature=related

lennel
19-11-2009, 15:45
http://img147.imageshack.us/img147/349/15nhatho471hp1.jpg (http://imageshack.us)


Nhà thơ Đồng Đức Bốn


“Nhà quê” và thơ lục bát

(Lại Nguyên Ân)

Tôi thử nhớ lại xem mình đã gặp thơ Ðồng Ðức Bốn trong trường hợp nào.

Dạo đó cách nay đã hơn mười năm, vào một ngày nào đó, một số người chúng tôi tình cờ gặp nhau khi đến mừng một bậc đàn anh lên lão thất tuần. Người lên lão bảy mươi ấy là Trần Ðộ. Ông vốn tính rất trẻ, hôm ấy đã đưa chúng tôi xem một bài thơ mà ông bảo không biết của ai, vì ông thấy thích nên chép lại:

Cái hôm em ở với chồng,
Ðể ai hoá đá bên sông đợi đò.
Cái đêm hôm ấy gió mùa,
Tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan.

Cái đêm lành lạnh gió mùa,
Em trong chăn ấm có đùa cùng ai ?
Ngang trời tiếng vạc mảnh mai,
Chém trăng đã đứt thành hai mảnh rồi…


Bọn tôi cùng xem thơ và cùng thừa nhận: một bài thơ hay. Hoạ sĩ Nguyễn Quân thích nhất câu “tơ nhện giăng đến cổng chùa thì tan”, một bạn thơ khác thì thích cái sáng tạo hình dung tiếng vạc mảnh mai chém lìa vầng trăng thành hai mảnh… Chúng tôi rủ nhau ký tên xung quanh bài thơ chép tay ấy rồi đưa ra phố photocopy mỗi người giữ một bản làm kỷ niệm… Hôm ấy, Nguyễn Huy Thiệp, có cả vợ và một con trai nhỏ đi cùng, chỉ nghe mọi người bình tán chứ không góp chuyện. Sau buổi hôm đó ít lâu, tôi mới biết rằng bài thơ trên là sáng tác của Ðồng Ðức Bốn, và rằng Nguyễn Huy Thiệp hầu như là người đầu tiên trong giới cầm bút hữu danh đã giới thiệu thơ Ðồng Ðức Bốn với công chúng.

Quả thật, Ðồng Ðức Bốn là người làm thơ hiếm hoi được Nguyễn Huy Thiệp cảm mến. Thiệp đã động bút viết về thơ Bốn không chỉ một lần, không chỉ bằng văn bình luận. Truyện “Ðưa sáo sang sông” đưa ra hình tượng cái anh chàng mắc hội chứng “mê gái đã có chồng”, cái anh chàng hay lúc lắc cái đầu vì trong tai cứ kêu, cứ muốn rơi ra, một câu sáu một câu tám, rồi lại một câu sáu một câu tám… (chi tiết các câu thơ kêu trong tai tác giả đòi ra đời này, chừng như là mượn ở Hoàng Cầm).

Nguyễn Huy Thiệp thích thơ Ðồng Ðức Bốn, điều ấy đã rõ. Nhưng cũng chỉ thơ lục bát của Ðồng Ðức Bốn thôi, với Nguyễn Huy Thiệp mới là có giá trị.

Tôi nghĩ, cả Thiệp, cả Bốn đều chỉ thực tin vào những giá trị dân giã cổ truyền, đều chỉ thực lòng thương nhớ đồng quê.

Nhà quê có cái giếng đình,
Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ…

Nhà quê chân lấm tay bùn,
Mẹ đi cấy lúa rét run thân già…

Nhà bạn cũng giống nhà tôi,
Mái tranh vách đất nhìn trời qua vung…


Dĩ nhiên “nhà quê” bây giờ cũng đã có nhiều cái khác. Trai quê trong thơ Bốn đã “quần bò, mũ cối”; tóc gái quê vẫn chưa hết hương bồ kết, hương nhu, nhưng con mắt đã hướng nhìn ra ngoài lũy tre làng; điểm hẹn của những gái trai cùng làng có khi lại là những địa danh nơi kẻ chợ: (đường) Thanh Xuân, (phố) Trần Hưng Ðạo, đê sông Hồng, đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, phủ Tây Hồ… (tất cả đều ở Hà Nội!). Ấy thế mà đối với Ðồng Ðức Bốn (điều này hẳn Thiệp tán thành) thì:

Bao nhiêu là thứ bùa mê
Cũng không bằng được nhà quê của mình!


“Nhà quê” và thơ lục bát là hai thứ mà Ðồng Ðức Bốn cảm thấy mình nắm chắc nhất để nói chuyện với đời. “Nhà quê” và thơ lục bát Ðồng Ðức Bốn – cũng là những món chính mà Nguyễn Huy Thiệp tự tay ghi vào “menu” đưa cho các vị khách, cho công chúng của thơ.

Lục bát của Ðồng Ðức Bốn quả là có sức hấp dẫn. Có thể thấy nỗ lực của Bốn sáp thơ mình lại gần ca dao, đem cái mà người ta gọi là “thi pháp ca dao” vào để ngọt ngào hoá, mê đắm hoá câu lục bát của mình. Phương hướng này không phải không chứa đựng nguy cơ. Là vì những ý tứ cũ, chữ nghĩa cũ bị lặp lại, có thể đẻ ra thêm nữa những câu sáo mòn loại này:

Sáng trong lòng một chữ tâm,
Bao nhiêu nắng lửa mưa dầm cũng qua.

Tình yêu đổi lấy thi ca,
Máu xương đổi lấy phù sa sông Hồng


Ở khía cạnh tích cực, sự vận dụng “thi pháp ca dao” cần một sự đồng hành chủ động hơn của nhà thơ.
Chẳng hạn, ngoa ngoắt là một nét vốn có ở ca dao truyền thống. Ước mong gặp mặt người yêu khiến lời thôn nữ có kích thước phi thường:

Ước gì sông hẹp một gang,
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi.


Sự cự tuyệt lời cầu hôn của một kẻ không ra gì cũng phổ một nét mỉa mai vào lời phúc đáp cực ngoa từ phía cô gái quê:

Bao giờ cây cải làm đình
Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.


Có vẻ như Ðồng Ðức Bốn rất ưa cái ngoa ngoắt này của ca dao. Hầu hết những câu lục bát Ðồng Ðức Bốn mà Nguyễn Huy Thiệp dẫn trong bài giới thiệu đầu tiên đều xa gần có nét ngoa ngôn lộng ngữ:

Chiều nay Hồ Tây có giông,
Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm

Cánh hoa sắc một lưỡi dao
Vì yêu tôi cứ cầm vào như không

Ðừng buông giọt mắt xuống sông
Anh về dẫu chỉ đò không cũng chìm.


Ðồng Ðức Bốn dường như thích in dấu những gãy đổ, những tai biến vào câu lục bát vốn dĩ mềm mại:

Em mang câu hát theo chồng,
Thuyền tôi đậu nắng trên sông gãy sào.

Tiếng ve xé nát đôi bờ
Chợ Thương để nắng bơ phờ trên sông.

Sao rơi cháy cả đôi bờ
Mà anh thì cứ bơ vơ giữa trời.

Em đi như chim về ngàn
Ðể rơi một cánh hoa tan nát chiều.


Cố nhiên đem đặt cạnh những câu ca dao kinh điển, thơ lục bát Ðồng Ðức Bốn, ngay những câu hay nhất, vẫn có nét gì nhân tạo, nhiều tiểu xảo.

Ở câu ca dao dẫn trên, rau cải là rau, không thể thành gỗ để làm cột đình; lim là gỗ “tứ thiết”, không bao giờ có thể đem thái làm rau ghém; nói chung, ở thế giới ca dao của người trần mắt thịt thì thì không thể có “voi chín ngà, gà chín cựa”… Ca dao tựa vào những sự thật kinh nghiệm đích thực, nên lời thách ngoa ngoắt kia cũng đích thực.

Ở những câu lục bát tai biến của Ðồng Ðức Bốn, thường khi chỉ nhờ ý chí của tác giả, nhờ tiểu xảo của liên tưởng ngôn ngữ, những gì gọi là tai biến mới có thể được cảm nhận như là tai biến. Thực vậy:

Chiều nay Hồ Tây có giông
Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm.


Giông gió nổi trên Hồ Tây có thể là thật, nhưng ngôn từ tôi ngồi trên sóng thì chưa chắc đã có thể có nghĩa đen. Vậy mà chỉ khi người ta tin có chuyện tôi ngồi trên sóng thì cái tứ “ngồi trên sóng… không chìm” mới xác lập được.

Cánh hoa sắc một lưỡi dao
Vì yêu tôi cứ cầm vào như không.


Chắc hẳn cái mà “tôi” đưa tay ra cầm là hoa; nhưng nếu không có liên tưởng của tác giả biến cánh hoa thành lưỡi dao sắc, gây lấy chút ớn lạnh nơi người đọc, thì cái chuyện “vì yêu tôi cứ cầm vào” chẳng còn chút duyên nào nữa.

Những bến bờ bị “xé nát” bởi tiếng ve, bởi sao rơi; con thuyền tôi “gãy sào” mất lái vì “em” đã mang câu hát theo chồng mất rồi; trời chiều tan nát vì cánh hoa người con gái ra đi bỏ lại…, tất cả chỉ là những thực tại ngôn từ, những tai biến ngôn từ. Thực tại ngôn từ này do tác giả tạo ra, bằng ý chí riêng, bằng cả sự cưỡng bức nữa, đối với ngôn ngữ.

Tôi thường đi trên lưỡi dao,
Tay cầm cơn bão đem vào cho em.


Ðồng Ðức Bốn đã gần đến giới hạn bên này của sự bạo hành ngôn ngữ, điều mà Nguyễn Huy Thiệp dường như rất muốn cổ vũ.

Ðồng Ðức Bốn thường để cho thơ lục bát của mình tựa vào ca dao, coi vốn ca dao kinh điển là một liên văn bản rộng lớn của thơ mình. Ca dao vốn đã quen trích dẫn lẫn nhau. Khi một câu ca dao nói lời người con trai với đám con gái rằng:

Có rửa thì rửa chân tay
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh


thì câu ấy ắt phải dựa vào, phải ngầm trích dẫn những câu ca dao tả cái liếc sắc sảo của đôi mắt đẹp:

Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau…


Ðồng Ðức Bốn vốn tự nhận là rất mê gái một con (tâm lý này có lẽ cũng là trích dẫn ca dao) cũng nhắn nhủ đôi mắt kia:

Lông mày ai chớ uốn câu,
Ðể con cá chết, cho cầu ao đau.


Chung quy chẳng hề có chuyện cá chết hay cầu ao đau vu vơ nào, chỉ có sự đồng thuận của những bụng dạ đàn ông; thói mê gái đã là động lực đẩy cho những nét nghĩa ngôn từ cứ tựa vào nhau mà trượt dài xa dần khỏi đối tượng mô tả; nói cá chết ao đau mà thật ra chỉ để rên rỉ rằng ôi đôi mắt cô em đẹp lắm!

Ở trên tôi đã nói nhiều về khía cạnh thơ lục bát Ðồng Ðức Bốn gắn bó với ca dao cổ truyền. Tuy vậy, Bốn là người của hiện tại, không phải không có lúc Ðồng Ðức Bốn chống lại “ý thức hệ” ca dao. Dù hơi hiếm, vẫn thấy ở thơ Bốn những câu loại này:

Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi
Con tôi chết bởi lời người hát ru
Con tôi chết ở ao tù
Mà lời người vẫn hát ru ngọt ngào.


Một nhận biết kinh nghiệm rằng cái “chân lý” trong lời hát ru kia không phải là chân lý mà là sự giả dối, sự xui dại; điều đáng sợ là lời hát kia vẫn còn đó, vẫn ngọt ngào rót vào tai những ai chưa biết đó là điều giả dối.

Ðúng ra, những câu lục bát “phản ca dao” kiểu này còn khá hiếm trong thơ Ðồng Ðức Bốn. Thơ Bốn vẫn còn nằm trọn ở hướng “về nguồn” dẫu trong đó đã thấm nhuần không ít những trải nghiệm thuộc loại khác hẳn, từ đời sống đương đại.

Trở về với mẹ ta thôi
Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ.


Tâm thức hướng trở lại trạng thái bào thai này, có người cho là tâm thức vĩnh cửu, hoài vọng vĩnh cửu của nhân loại; riêng tôi nghĩ nét tâm trạng này còn có chỗ đứng trong đời sống con người chừng nào trên cõi đời này chưa thấy những giá trị mới thật đáng tin cậy.
(Lại Nguyên Ân)

lennel
23-11-2009, 22:02
Ludvig Van Beethoven (SuuTam)

là một nhạc sĩ thiên tài người Đức, tác giả của những bản giao hưởng "Số phận", "Anh hùng", "Điền viên", "Thứ 9" cùng những bản Sonata "Ánh trăng", "Đồng quê"... đã trở nên quen thuộc đối với thính giả ở các châu lục hàng trăm năm nay. Nhiều nhạc sĩ đương thời gọi ông là "thiên tài lập dị", bởi ông luôn sáng tạo ra những âm thanh khác thường và ngẫu hứng.

Ông không đạt đến "kỷ lục" về số lượng tác phẩm như Mozart, nhưng lại đạt "kỷ lục" về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình cảm sôi nổi và cấu tứ hoàn mỹ trong mỗi nhạc phẩm. Ông đã tổng hợp được những tinh tú của âm nhạc cổ điển, làm cho trường phái lãng mạn mà ông khai sáng chiếm địa vị độc tôn trong đời sống âm nhạc. Vì vậy, tác phẩm của Beethoven hầu như được lưu hành nhiều nơi trên thế giới hơn cả.

"Tôi phải túm cổ số phận chứ không để cho nó khuất phục!"

Lên 4 tuổi, Beethoven bắt đầu học đàn, 8 tuổi đã tổ chức nhạc hội cá nhân, 11 tuổi sáng tác "Đại hợp xướng đưa tang" nổi tiếng khắp châu Âu, 13 tuổi vào dạy phong cầm trong hoàng cung, 14 tuổi được bổ nhiệm làm Giám đốc dàn nhạc giao hưởng Organ hoàng gia, 25 tuổi ra mắt buổi hòa nhạc đầu tiên gồm Bản giao hưởng số 1 và nhiều tác phẩm khác tại nhà hát lớn ở Vienna... Beethoven được người đương thời suy tôn là "Thánh nhạc"!

Hầu như tất cả các thiên tài về âm nhạc đều hội tụ cả hai yếu tố: thiên tài bẩm sinh và sự dày công khổ luyện suốt cả cuộc đời. ở Beethoven, năng khiếu về âm nhạc bộc lộ từ nhỏ, lại được ông nội và cha dẫn dắt theo nghề "gia truyền" với một cách thức riêng. Từ lúc còn là một cậu bé "vắt mũi chưa sạch", Beethoven thường phải vừa khóc vừa đàn một cách miễn cưỡng theo mệnh lệnh hà khắc của người cha. Vì muốn con trai trở thành thần đồng âm nhạc như Mozart, người cha thường xuyên dùng roi vọt bắt cậu bé tập đàn 4 tiếng liên tục trong một ngày, bất chấp cậu phản ứng, khóc lóc...

Cậu bé luôn chìm đắm trong thế giới âm thanh, khi miễn cưỡng, khi tự nguyện, và tự lúc nào cậu đã trở thành môn đệ của thế giới huyền bí này. Khi ông trưởng dàn nhạc nhà thờ qua đời, người cha nát rượu không thể nuôi nổi gia đình, Beethoven phải làm trợ lý cho Christan Gottlob Neefe, nhạc sĩ phụ trách diễn tấu đàn oóc trong cung đình. Thương cậu bé nghèo có năng khiếu âm nhạc, Neefe không tiếc công sức hướng dẫn cậu những kiến thức cơ bản về âm nhạc, tìm cách để Beethoven được làm học trò của những bậc thầy như Mozart và Haydn. Dưới sự chỉ bảo của Neefe, 12 tuổi Beethoven đã đọc được chính xác các bản nhạc, diễn tấu điêu luyện đàn piano, violon...

Trước khi trở thành nhà soạn nhạc, Beethoven xuất hiện trước công chúng với tư thế của một nghệ sĩ biểu diễn piano và violon. Ngoài ra, anh còn tự học văn chương, triết học, lịch sử... Bàn tay Beethoven đã không ít lần bỏng rát, rớm máu khi gõ trên các phím đàn, để tìm ra âm thanh mà ông đã nghe thấy đâu đó một cách ngẫu nhiên. Từng nốt nhạc, từng âm thanh trong những bản nhạc của ông đều thấm đẫm những giọt mồ hôi.

Bản thảo vở ca kịch duy nhất còn lại của Beethoven dày 250 trang, chỉ riêng phần nhạc khúc “Da-capoaria” của ông đã đặt ra 12 phương án hoàn toàn khác nhau. Một người chuyên nghiên cứu về Beethoven cho rằng, đọc 200 trang bản thảo của người khác còn dễ hơn đọc một trang bản thảo của ông, vì chúng bị sửa đi, sửa lại nhiều đến nỗi không biết đằng nào mà lần.

Khi sự nghiệp âm nhạc đang phát triển rực rỡ thì Beethoven bị điếc. Đầu tiên là chứng nặng tai, đến năm 19 tuổi thì điếc hẳn, chỉ có thể giao tiếp qua giấy bút. Anh không thể trò chuyện với người yêu, không thể nghe thấy những nốt nhạc mà anh phải nhọc nhằn tìm kiếm.

Có lúc, Beethoven tuyệt vọng định tìm đến cái chết, đã viết bức thư tuyệt mệnh: "Có thể nói là tôi đang sống một cách đau khổ. Hai năm qua tôi luôn trốn tránh những buổi tiếp xúc xã giao vì tôi không có đủ can đảm để nói với mọi người là tôi đã điếc. Nếu tôi làm một nghề khác thì có lẽ còn nhẫn nại được, nhưng cái nghề của tôi thì việc này là một điều đáng sợ...". Nhưng nỗi đam mê âm nhạc đã vực dậy con người bướng bỉnh trong anh.

"Tôi phải túm cổ số phận, chứ không để cho nó khuất phục!". Khi thính giác mất dần, Beethoven phải rời bỏ nghề biểu diễn đàn, rồi từ bỏ nghề chỉ huy dàn nhạc, chuyển sang sáng tác. Tinh lực của anh dồn cả lên ngòi bút.

Trong vòng 10 năm, khi đã bị điếc hoàn toàn, "Thánh nhạc" Beethoven đã lần lượt cho ra đời bốn bản giao hưởng nổi tiếng: "Anh hùng", "Điền viên", "Số phận", "Thứ 9". Bản giao hưởng Thứ 9 (The Ninth Symphony), nói lên khát vọng tự do của bản thân ông và nhân loại, công diễn lần đầu tiên vào năm 1824 đã liên tiếp nhận được 5 lần vỗ tay, khiến cảnh sát tưởng có chuyện bất ổn phải vội vàng xông vào rạp.

Theo quy định hồi đó, chỉ khi nào hoàng đế xuất hiện ở rạp khán giả mới vỗ tay 3 lần. Beethoven ngồi lặng lẽ ở hậu trường không hề hay biết điều đó. Chỉ đến khi một nữ ca sĩ dắt ra trước sân khấu chứng kiến sự cuồng nhiệt của khán giả, Beethoven sung sướng đến nỗi ngất xỉu.

Tác giả những bản nhạc bất tử về tình yêu là một người suốt đời sống độc thân!

Ngoài 9 bản giao hưởng, Beethoven còn sáng tác nhiều Sonatta về tình yêu, trong đó Sonatta "Ánh trăng" là nhạc phẩm nổi tiếng nhất. Đâu là chất liệu của những bản nhạc bất tử về tình yêu đó? Những mối tình tuyệt vọng? Sự tưởng tượng? Hay nỗi ước ao? Hay tất cả những điều đó gộp lại!

Về dáng vẻ bề ngoài, Beethoven là một chàng trai xấu xí, mặt rỗ, tai điếc, áo quần luôn xộc xệch, giống như Robinson Crusso mới từ hoang đảo trở về. Song, đã có không dưới chục người phụ nữ, phần đông thuộc tầng lớp quý tộc đi qua cuộc đời người nhạc sĩ tài hoa, chỉ vì mến mộ cái tài âm nhạc của ông. Đầu tiên là cô học trò nhỏ Lorsi. Nhưng sau đó, Lorsi đã kết hôn với một người bạn của Beethoven. Tiếp đến, thời gian ở Vienna, là B.Christina và M. Malatana. Sau đó, Beethoven lại yêu nữ bá tước trẻ Hungari tên là Peti.

Nhưng Peti lại kết hôn với một bá tước già nua và giới thiệu cho Beethoven cô em gái mới 16 tuổi. Cô này cũng bỏ Beethoven để lấy một bá tước đẹp trai... Bi kịch của những mối tình ấy đã đem đến cho nhạc sĩ những khao khát, những hy vọng, những đớn đau... đủ làm nên những nhạc phẩm làm yếu mềm trái tim biết bao đôi lứa. Dư âm của những cuộc tình ấy đã lắng đọng trong một số nhạc phẩm của Beethoven, với lời đề tặng chân thành, chứa chan yêu dấu. Beethoven chưa bao giờ ngỏ lời cầu hôn với ai, và những người phụ nữ mà ông yêu cuối cùng đều lấy những người đàn ông khác.

Ông đã từng thất vọng: "Đáng thương thay cho Beethoven, thế giới này không có hạnh phúc dành cho ngươi; ngươi chỉ có thể cảm thấy yên ổn và hạnh phúc trong tâm tưởng mà thôi". Nhạc sĩ đem nỗi ước ao về hạnh phúc gửi gắm trong tác phẩm ca kịch vĩ đại nhất của mình, vở "Fidelio", miêu tả cảnh cô Leonora lẻn vào ngục cứu chồng là Florestan.

Ông đã dành rất nhiều tâm huyết cho vở kịch này, tự cho rằng đây là một tác phẩm viết ra trong nỗi đau khổ, song phần nào giúp ông toại nguyện. Phải chăng, sau nhiều lần thất bại trong tình yêu, ông chẳng khác gì một kẻ "tù tội" và hy vọng nữ thần Tình yêu xuất hiện để cứu vớt. Được biết, thời điểm viết vở ca kịch này, Beethoven vừa tan vỡ mối tình đầu với Lorsi và sau đó yêu hai cô gái quý tộc, một cô là Malfatti và một cô là Giulietta.

Trong những di vật còn lại của nhà nhạc sĩ thiên tài có ba bức thư ông gửi cho "Người yêu muôn thuở" ký tên "L", không đề năm và tên người nhận. Một bức đề "buổi sáng ngày 6 tháng 7", một bức đề "đêm thứ hai, ngày 6 tháng 7" và bức cuối cùng đề "buổi sáng ngày 7 tháng 7". Lời lẽ trong những bức thư này nồng nàn: "...Người yêu muôn thuở của tôi... Em yêu dấu, anh muốn được chung sống với em, mãi mãi ở bên nhau; thiếu em thì anh chẳng thiết sống nữa. Không ai khác có thể xâm chiếm trái tim anh, hoàn toàn không ai khác.

Ôi Thượng đế, chúng ta yêu nhau thế, tại sao người lại bắt chúng ta phải xa nhau. Hỡi ý trung nhân mãi mãi không quên! Anh yêu em chân thành, xin đừng bao giờ hiểu lầm tấm lòng của anh...Vĩnh viễn là của em, vĩnh viễn là của anh, chúng ta vĩnh viễn là của nhau...".

Theo hai chuyên gia nghiên cứu về Beethoven là A.Schindler và G.R. Marek, đây là ba lá thư Beethoven gửi cho Giulietta vào năm 1801. Hai ông cũng cho rằng, thời điểm đó, Giulietta bị cha mẹ ép gả cho bá tước Galleenberg. Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng Beethoven sáng tác bản Sonata "Ánh trăng" để tặng cho nàng Giulietta






* * *


Sau đây là những bức thư của L.Beethoven


.....

Buổi sáng, ngày mùng 6 tháng bẩy

Thiên thần của tôi, tất cả cuộc đời tôi và cả bản thân tôi nữa !

Chỉ một vài dòng thôi cho ngày hôm nay và bằng chính cây bút chì của em đấy. Tôi không thể đợi đến mai, khi mà chỗ ở của tôi được ấn định – đó là sự phí phạm thời gian một cách vô ích. Tại sao cứ đớn đau như thế khi cần phải nói ra đây, rằng - làm sao tình yêu đôi ta có thể tồn tại bền lâu nếu như không có một tấm lòng biết hy sinh, biết vượt qua mọi đòi hỏi từ nhau ; làm sao em có thể thay đổi được sư thật , rằng em không thuộc về tôi nữa ,còn tôi cũng chẳng thuộc về mình. Ôi Chúa ơi, làm ơn hãy để ý đến vẻ đẹp của thiên nhiên và làm khuây khoả trái tim em. Tình yêu đòi hỏi mọi thứ và công bằng lắm – vì thế nó đòi hỏi bản thân em đối với tôi và bản thân tôi đối với em. Nhưng em đã quên đi quá dễ dàng , rằng tôi phải sống cho tôi và cả cho em nữa ; ước gì chúng ta hoà vào làm một, để em có thể cảm thấy nỗi đau tôi dù chỉ là một phần ít ỏi .

Cụộc hành trình của tôi thật kinh khủng , tôi không thể tới được đây cho đến tận 4 giờ sáng hôm qua . Vì thiếu ngựa nên xe trạm phải chọn một con đường khác, nhưng sao mà nó khinh khủng thế ; trước trạm cuối tôi đã được cảnh báo không nên tiếp tục đi khi đêm xuống , đã được cho biết sự đáng sợ của rừng già, nhưng điều đó chỉ làm tôi thêm hăm hở ra đi – và tôi đã sai lầm .

Chiếc xe ngựa lẽ ra đã phải vỡ tan tành trên con đường thảm hại với một lớp bùn tưởng như sâu vô tận . Không có các phu trạm ở đó có lẽ giờ nay tôi vẫn còn kẹt trên đường. Etsterhay đi qua con đường này thường xuyên và chịu chung số phận đó dù với tám ngựa, trong khi tôi lại chỉ có bốn con. Tuy nhiên tôi cũng có được một vài điều thú vị từ chuyện đó , giống như tôi luôn làm thế mỗi lần khắc phục thành công những khó khăn .

Giờ đây có vài điều cần phải thay đổi nhanh lên ,cái bản chất bên trong nó từ những biểu hiện bên ngoài . Chúng ta chắc rằng sẽ sớm gặp lại nhau ,vả lại ngay hôm nay thì tôi không thể sẻ chia với em những suy nghĩ mà tôi có trong suốt những ngày cuối liên quan tới cuộc đời của riêng tôi. Nếu như trái tim chúng ta đã luôn gần bên nhau, thì tôi đâu có những ý nghĩ đó . Trái tim tôi tràn ngập quá nhiều điều để nói hết được với em – ôi chao - có những khoảnh khắc tôi cảm thấy ngôn từ rốt cuộc có ý nghĩa gì đâu. Hãy vui lên đi nào, hãy vẫn là thực tại của tôi, người thương duy nhất của tôi, tất cả đời tôi, như tôi đang thuộc về em.

Chúa sẽ gửi tới cho chúng ta sự yên bình , điều đó hẳn dành cho chúng ta và sẽ là như thế.

LUGWID chân thành của em

* * *

Buổi tối, thứ hai, ngày mùng 6 tháng bẩy.

Em đang đau đớn , con người thân thương nhất của tôi - chỉ đến giờ tôi mới biết rằng thư từ phải được gửi đi rất sớm vào buổi sáng từ Thứ hai đến Thứ ba -chỉ trong những ngày này xe thư mới đi từ đây đến K .

Em đang đau đớn . Chao ôi , bất cứ nơi nào có tôi đều có em ở đó . Tôi sẽ thu xếp điều đó với cả em và tôi để tôi có thể sống cùng em . Ôi cuộc sống !!! Như thế nay sao !!! Không có em -bị đeo đuổi bởi lòng hào hiệp của con người ở nơi này hay nơi khác -điều đó cũng khiến tôi mong mỏi chút ít rằng mình xứng đáng với những điều có được. Sự hạ mình của con người với con người – nó làm tôi đau đớn –và khi tôi xem bản thân trong mối liên hệ với vạn vật –tôi là gì đây và Người nữa ?–con người mà chúng ta gọi là Người vĩ đại nhất - và như thế - ở đâu đó trong mỗi chúng ta đều đang ẩn chứa những điều thần diệu .

Tôi ứa nước mắt khi nghĩ rằng có lẽ em sẽ không nhận được lá thư đầu tiên của tôi cho tới tận Thứ bảy . Dù em có yêu tôi nhiều đến thế nào – tôi vẫn yêu em nhiều hơn thế . Nhưng hãy đừng bao giờ che giấu bản thân em với tôi -tạm biệt em.

Ôi Chúa trời, Người ở gần quá mà cũng xa vời quá . Phải chăng tình yêu của chúng con không thực sự được như cấu trúc của thiên đường , và vững chắc như vòm trời kia của Chúa


* * *

Ngày mùng 7 tháng bẩy, chúc em một buổi sáng tốt lành.

Vẫn nằm trên giường nhưng ý nghĩ của tôi hướng cả về em , người yêu dấu muôn đời của tôi . Có lúc hân hoan , có lúc đau buồn , chờ đợi để biết rằng số phận có lắng nghe chúng ta không . Tôi chỉ có thể sống có em hoặc chẳng cần gì cả. Đúng rồi, tôi đã quyết định đi thật xa , rời khỏi em cho đến khi tôi có thể bay đến với đôi tay em và nói rằng tôi đang thực sự ở dưới một mái nhà cùng em và có thể gửi trọn tâm hồn tôi dành cho riêng em với một tinh thần trọn vẹn . Như thế đó em , thật không may rằng mọi việc lẽ ra đã phải là như thế . Em sẽ hiểu được điều đó nhiều hơn khi em biết lòng thuỷ chung của tôi dành cho em . Không còn ai khác nữa có thể níu giữ được trái tim tôi – chưa bao giờ -chẳng bao giờ . Ôi Chúa ơi , tại sao phải chia lìa những con người yêu nhau đến thế.Và ngay cả khi cuộc sống của tôi tại V có là một cuộc sống cùng khổ chăng nữa-thì tình yêu của em biến tôi thành người hạnh phúc nhất và cũng là kẻ bất hạnh nhất . Ở tuổi tôi , tôi cần một cuộc sống yên bình và trầm lặng – có thể như thế được không em với mối liên hệ hiện tại của chúng ta ?

Thiên thần của tôi , tôi vừa được cho biết rằng xe chở thư ra đi hàng ngày – vì vậy tôi phải viết xong ngay để em có thể nhận được thư lập tức .

Hãy bình tâm em nhé , chỉ khi bình tâm để suy xét về thực trạng của chúng ta thì chúng ta mới có thể đạt tới mục đích là được ở bên nhau . Hãy bình tâm lại đi em – hãy yêu tôi - như thực tại hôm nay - như quá khứ đã qua. Những khát khao mong đợi đầy tràn lệ tôi dành cho em , chỉ riêng em , và duy nhất , cuộc sống của tôi , tất cả của tôi . Tạm biệt em . Ôi em , xin cứ yêu tôi , xin đừng bao giờ trách lầm một trái tim yêu em và thuỷ chung đến thế .

Mãi mãi của em

Mãi mãi của tôi

Mãi mãi của đôi ta.

acaxomcui
24-11-2009, 08:59
Biển vẩn bình thãn đưa sóng vào bờ và bình thãn mang đến những cơn bão tố

acaxomcui
10-11-2010, 09:57
Đào lên nào
.

Bác đào yếu thế?
Làm một bài hấp dẩn đi bác!

Carbon
26-12-2010, 09:30
BÚT TRE

MỘT DÒNG THƠ ĐƯỢC ƯA THÍCH


Thơ Bút Tre là một thể thơ dân gian bắt nguồn từ ngôn ngữ khoáng đạt chốn làng quê Việt Nam; Điều khác biệt ở thể Thơ Bút Tre, là người sáng tác không phải là một tác giả cụ thể, mà là dân gian nhiều người sáng tác rồi truyền khẩu. Thơ Bút Tre là một hướng phát triển mới - Rút lấy cái cốt lõi của văn chương bác học mà trả về với hơi thở dân gian tự nhiên, chân chất mà sảng khoái. Bút Tre - Đặng Văn Đăng - người tiên phong cho một hướng đi ngược lại với văn chương hàn lâm, bác học trả lại cho văn hóa dân gian cái chân chất vốn có của ngàn năm thôn quê, mộc mạc mà dễ nhớ.

Thi pháp của thơ Bút tre:
Thi pháp gọi theo cách dân gian là lối (lối thơ)

1. Lối vắt dòng gãy câu:
Anh đi công tác Ban Mê-
Thuột xong một cái lại về Plây-
Cu anh tuy có hơi gầy
nhưng mà em vẫn ngày ngày đợi anh!

2. Lối viết tắt (lối chặt từ):
Anh đi em đợi ở nhà
Cửa mình để mở người ra kẻ vào (cửa nhà mình)

3. Lối biến âm để tạo vần:
Liên hoan có một nải chuồi (chuối)
Ra về nhớ mãi cái buồi hôm nay (buổi)

4. Lối hoan hô:
Hoan hô Trung tá Phạm Tuân
Bay lên vũ trụ một tuần về ngay

5. Lối để lửng:
Nguời nào mà chẳng có lông
Sau đây bài " lá diêu bông" bắt đầu

CON CHÓ NGỒI NGHỊCH CÁI QUE
SAU ĐÂY TIẾT MỤC BÚT TRE BẮT ĐẦU

Chị em nô nức đặt vòng
hoa mộ liệt sỹ tỏ lòng biết ơn

Anh đi công tác Cam Pu
Chia chiến lợi phẩm ở tù ba năm

Anh đi công tác bản Muờng
Tè xong một cái lên đường về quê

Email anh viết thật bay
bướm em mong đợi từng ngày từng đêm.

Con đò dịch đít sang ngang
Bên kia có một cái làng thò ra

Chợ Đồng Xuân có tiếng đồn
Có chị bán trứng vịt lộn rất to

Mời anh vào quán kara-
OK em đã mở ra sẵn sàng

Sông Cầu nước chảy lơ thơ
Có đôi trai gái ngồi hơ quần đùi

Chị em du kích tài thay
Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa (nhà) mình

Liên hoan có bánh có chuồi
Ta đi ta nhớ cái buồi hôm nay

Mấy em mặc váy đánh cầu
lông bay phấp phới trên đầu các anh

Anh đi công tác Pờ Lây
Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra
Còn em em vẫn ở nhà
Cửa (nhà) mình em mở người ra kẻ vào

Tiễn anh lên bến ô tô
Đêm về em khóc ... tồ tồ cả đêm

Phụ nữ thường rất hay lười
Riêng em anh thấy là người cần cù

Bắc Ninh có cậu Nguyễn-Trùng-
-Dương, vật khỏe quá cả vùng thất kinh

Ngọt ngào bóc múi em ra
Mời nhau cặp bưởi, chút quà Hùng Đoan

Anh đi công tác Plây
Cu dài dằng dặc biết ngày nào vê
Họp xong anh ghé buôn mê
Thuột xong một cái thì về với em

Bốn ông chung một đĩa lòng
lợn ngồi chễm chệ với thùng bia to

Hôm qua em đến đồi Lê
Nin ngồi đợi mãi, đành về lại ky
Túc xá buồn, em xem Nhi
Cu-lin diễn để vơi đi nỗi buồn

Hôm qua học tập chính tri
Cán bộ ngồi ỳ, chẳng chịu phát biêu
Cơm ăn chẳng được bao nhiêu
Đảng uỷ lại bắt phát biêu cả buồi

Em đi công cán đảo Côn
Lôn rộng bát ngát, bồn chồn nhớ anh

Khi đi em nắm cổ tay
Khi về em nắm… chỗ này, chỗ kia

Làm thơ nên tránh vần ồn
Kẻo không lại đụng cái …mồm chị em.

Hội trường yên ắng ngủ say
Thuyết trình vừa dứt… vỗ tay ra về.

Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng mông trắng như mây

Con mèo đánh đổ cái bô
Sau đây liên khúc đít-cô (disco) bắt đầu.

Trẻ nào chẳng ị vào bô
Sau đây là điệu sì-lô (slow) bắt đầu.

Nguời nào mà chẳng có lông
Sau đây bài “Lá diêu bông” hát bè.

Chim khôn chim đậu cành cao
Bướm khôn bướm đậu ngay vào đầu chim.

Số tôi số chẳng ra gì
Vợ thì đời cũ, ti vi đời đầu
Đời đầu nên chẳng có râu
Xoa mông vỗ đít mà mầu chẳng lên
Ti vi hàng xóm nhà bên
Chưa sờ đến núm đã lên ầm ầm
Ước gì trời nổi cơn giông
Để tôi sang đó ôm nhầm ti vi.

Thứ Hai em phải đi làm
Thứ Ba em cũng vì làm phải đi
Thứ Tư làm việc nên đi
Thứ Năm càng phải vội đi để làm
Thứ Sáu em cũng phải tham
Thứ Bảy bận quá vì làm phải đi
Chủ Nhật thủng thẳng nghĩ suy
Ở nhà buồn quá có khi... đi làm.

Tin đâu sét đánh ngang tai
Lê-nin đang sống chuyển sang từ trần

Vào trong lăng Bác âm u
Chị em phụ nữ bỏ mu (mũ) ra chào.

Hôm nay mồng Tám tháng Ba
Chị em phụ nữ đi ra đi vào
Anh em nam giới mời chào
Chị em phụ nữ đi vào đi ra
Hiện đại như ở nước Nga
Chị em phụ nữ hết ra thì vào
Lạc hậu như ở nước Lào
Chị em phụ nữ hết vào lại ra
Xa xa ở tận Cu Ba
Chị em phụ nữ vừa ra lại vào
Gần gần như ở Hàng Đào
Chị em phụ nữ vừa vào đã... ra.
Việc gì phải tận nước Nga
Việc gì tám chuyện Cuba với Lào
Hãy đến bất cứ nhà nào
Chị em không việc cũng vào cũng ra
Thật là ngứa mắt chúng ta
Nhưng thôi cứ để họ ra họ vào
Không thì cửa sắt họ rào
Anh em đố có dám vào dám ra.
Rộng lớn như thể nước Nga
Người ta không cấm thụt ra thụt vào
Nhỏ bé như thể nước Lào
Cũng không có cấm thụt vào thụt ra
Chỉ riêng có Việt Nam ta
Đâu đâu cũng cấm thụt ra thụt vào.

Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về

Hoan hô anh Tạ Đình Đề
Trước là gián điệp nay về với ta

Hoan hô anh Lê Quảng Ba
Trước đi theo phỉ nay ra hàng mình

Hoan hô chị Nguyễn Thị Bình
Từ ngày thăng chức dân mình tăng nhanh

Hoan hô ông Phạm Văn Đồng
Ông về các cháu tồng ngồng chạy theo

Hoan hô anh Võ Chí Công
Làm chủ tịch nước mà không có gì

Hoan hô bộ trưởng Đỗ Mười
Phụ trách xây dựng mọi người đều khen

Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân bắc phân xanh đầy đồng

Hoan hô đồng chí Hà Đăng
Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa

Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ một tuần về ngay

Hoan hô đồng chí Hagi
Cách ba mươi mét mà ghi được bàn

Hoan hô anh La Văn Cầu
Cánh tay bị đứt nhưng đầu vẫn nguyên

Hoan hô tổng thống Siha
Núc na núc ních đi ra đi vào.

Hoan hô anh Nguyễn Đình Thi
Văn thơ nhạc kịch thứ gì cũng hay

Hoan hô chủ tịch Goocba
Chốp ngay đồng chí Raisà phu nhân.

Hoan hô đồng chí Go rờ
Bát Cô ta được bác Bờ thưởng huân
chương vì mang được Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ một tuần không sao!

Trạch Dân có họ Giang mai
này dân Trung Quốc đói dài vì ông

Hoan hô đồng chí Trần Hoàn
Lên làm Bộ trưởng chiếu toàn phim hay

Hoan hô bầu cử tự do
Lựa người xứng đáng ta cho vào hòm

Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín một cây gật gù
Chúng mày có mắt như mù
Mười cây chết cả gật gù ở đâu?

Đảng ta đã có truyền thông
Sống và chiến đấu ở trong quần chùng

Chim kêu trên nóc chuồng bò
Sau đây điệu múa câu hò lời ca

Mơ lông tuy có nhiều lông
Ăn vào ngon miệng chứ không việc gì

con ruồi bay lả bay la
bay từ chuồng xí bay ra đĩa lòng

Mặt trời mọc ở đằng đông
Sè sè dưới đất là mông cô Kiều

Không đi không biết Tam Đao (Tam Đảo)
Đi thì không biết chỗ nào mà ngu (ngủ)
Một giường nó nhét hai cu (cụ)
Thôi thì cố nhịn đến chu nhật về...

Chưa đi chưa biết Đồng Nai
Đi về mới biết dai thua Đồng nhà
Đồng nhà tuy có hơi già
Nhưng là Đồng chất hơn là Đồng Nai

Chưa đi chưa biết Cà Mau
Đi về mới biết về sau Cà nhà
Cà nhà tuy có hơi già
Nhưng là Cà chậm hơn là Cà Mau

Chưa đi chưa biết Ðồ Sơn
Ði về mới biết chẳng hơn đồ nhà
Ðồ nhà tuy xấu tuy già
Nhưng là đồ thật hơn là Ðồ Sơn

Chưa đi chưa biết Sài gòn
Đi rồi mới biết chẳng còn một xu
Về nhà mới biết là ngu
Thằng lớn ăn ít thằng cu ăn nhiều

Chưa đi chưa biết Cửa Ông
Đi rồi mới thấy toàn mông với giò
Chưa đi chưa biết Cửa Lò
Đi rồi mới thấy toàn giò với mông.

chưa đi chưa biết vũng tàu
đi rùi mới biết phê hơn vũng nhà
vũng nhà khoan mãi chẳng ra
vũng tàu khoan cái dầu ra ầm ầm....

Anh đi công tác play
cu anh hao gầy vì nhớ tới em

Tình hình là rất tình hình
Cho nên ta phải đi trình cấp trên
Cấp trên có tính hay quên
Cho nên ta phải nắm thêm tình hình

có hai anh chị đi chơi
bỗng đâu hòn đá nó rơi vào đầu
gọi bác sĩ thì còn lâu
sẵn đây tôi có hộp dầu con hô
lại thêm một ít thuốc bô
tôi hoà hai thứ tôi đô vào mồm

Việt nam đích thực quê ta
Từ trên nhìn xuống như là bản đô
Sông Hồng, sông Cả, sông Lô
Như rồng, như rắn, như đồ dây leo
Rừng cheo leo, núi cheo leo
Dăm ba con khỉ đang trèo vào ra
Việt nam đích thực quê ta...

Ngày xưa cụ Mác cụ Lê
Hai cụ đều giỏi chẳng chê cụ nào
Ngày nay thời đại lên cao
Có Ga Ga Rỉn bay vào vu tru

Hôm nay đài nói vui sao
Người ở dưới đất, chó bay lên trời

Thơ hay la ở cái vần
Nếu không tớ chẳng mặc quần nữa đâu.

Nhớ quê ra đứng đỉnh đèo
Bỗng đâu thấy một chú mèo gâu gâu

Hôm nay trên quốc lộ hai
Thể nào cũng có một vài ô tô.

Tại vì em chẳng có kinh
nghiệm nên không thể một mình giúp anh

Cô em tất tưởi làm ca
ve được mấy lít nuôi cha tuổi già
Đến đây chiêm ngưỡng quả cà
Fê thì đen rõ ,bóp ra cứng nhờ.

Không vô không biết bút tre
vô rồi mới biết muốn tè ra ngay
Chưa ăn chưa biết cu đơ
Ăn rùi mới biết nó đờ cu ra

acaxomcui
26-12-2010, 22:19
Tuy là có xem ở đâu đó rồi mà xem lại cũng hay.Cám ơn Carbon!

Dân làng Mùi ở khắp nơi,chỗ nào cũng có!

huongct
27-12-2010, 10:07
Tuy là có xem ở đâu đó rồi mà xem lại cũng hay.Cám ơn Carbon!

Dân làng Mùi ở khắp nơi,chỗ nào cũng có!


Vậy mới thấy Tiếng Việt nhiều cái rất độc đáo ! rất thú vị !:D

acaxomcui
27-12-2010, 10:33
Vậy mới thấy Tiếng Việt nhiều cái rất độc đáo ! rất thú vị !:D

Tớ khoái nhất là nói láy,nhưng đáng tiếc là không bằng Tống Nghiên bởi nó thâm háng quá!

Đâu có ngôn ngữ nào cũng nói láy được.

TongNghien
27-12-2010, 12:08
Tớ khoái nhất là nói láy,nhưng đáng tiếc là không bằng Tống Nghiên bởi nó thâm háng quá!

Đâu có ngôn ngữ nào cũng nói láy được.

Gì nữa, cha ?

Muốn trút, muốn đổ hết trách nhiệm lên đầu gối thằng này hả ??? :mad:

Trên đây nói lái... gớm nhứt là cha nội Mèo-Gào-Nắc, thứ nữa là ông nội Dê-Lỳ. Mà bây giờ dần dần xuất hiện nhiều ngôi sao mới... nhú lắm rồi, như thằng Lon, á không, thằng Lân Sa-Huỳnh chẳng hạn.

Thằng này không phải là giỏi, chẳng qua là thiệt thà nhứt thôi. Mấy kẻ kia thì núp lùm bắn lén, đó mới là GIAN hùng ! :crying:

huongct
27-12-2010, 12:26
Tớ khoái nhất là nói láy,nhưng đáng tiếc là không bằng Tống Nghiên bởi nó thâm háng quá!

Đâu có ngôn ngữ nào cũng nói láy được.


Khỏi phải nói ! ngoài ra nó còn cái màn lâu lâu đào hố cho cả làng té chơi ! cái vụ 'hốc bò tó' là điển hình !lol

Arkain
13-11-2011, 18:44
Một topic rất hay mà những thành viên mới nhập làng nên đọc :cool:

đồng đồng
17-11-2011, 13:50
. Long đong phận Tấm trong sách giáo khoa


Trong hành trình vào trường phổ thông, ở mỗi đời sách giáo khoa (SGK), truyện Tấm Cám lại có một số phận mới.

Lúc thì đưa nguyên bản kể của Vũ Ngoc Phan, Nguyễn Đổng Chi; khi lại sửa chữa, cắt gọt và có lúc thì loại bỏ; mà gần như cùng một lý do: để phù hợp với mục đích giáo dục.


Lần sửa chữa truyện Tấm Cám gần đây nhất là bộ SGK mới được thí điểm vào năm 2005, bắt đầu sử dụng rộng rãi năm 2006, cô Tấm có đến hai số phận trong hai bộ sách Ngữ Văn lớp 10 cơ bản và nâng cao.



Mỗi nhà soạn sách tín nhiệm và ưu tiên cách kể của một tác giả khác nhau nên Tấm Cám ở sách Ngữ văn 10 cơ bản khác với nâng cao ở chỗ: Cô Tấm ở sách cơ bản thể hiện khá rõ ý định trả thù cô Cám khi cô Cám hỏi nghệ thuật làm đẹp và tự tay thực hiện việc dội nước sôi cho Cám.
Ngược lại, cô Tấm ở sách nâng cao không thể hiển rõ ràng ý định báo thù như vậy, cũng không tự mình làm việc đó.



GS Chu Xuân Diên cho biết, khi đưa vào SGK nâng cao, ông đã thay đổi một số câu chữ ở đoạn kết theo cách kể trung tính vốn rất phổ biến ở thể loại truyện cổ tích.

Nghĩa là chỉ kể lại sự việc, không bình luận, không thể hiện suy nghĩ, tính toán hay ý đồ của nhân vật.
Theo ông, cách kể này làm nhẹ nhàng hơn cái kết của Tấm Cám, phù hợp với suy đoán của ông là trong nguyên thủy, có thể cô Tấm thực lòng muốn giúp cô Cám vì niềm tin vào việc tái sinh bằng nước sôi mà cô từng trải qua trong nguyên bản của G.Jeanneau (1886).



Nguyên nhân của sự sửa đổi ấy không nằm ngoài lý do: một áp lực từ xã hội mới khó chấp nhận một hình thức trả thù như của Tấm.


Tâm lý xã hội dễ dàng quy chụp cái kết đó vào những tội danh làm ảnh hưởng đến con trẻ. GS Phan Trọng Luận giải thích, việc cắt bớt này là “chấp nhận bớt nghệ thuật để thêm tư tưởng”.



Đi ngược về các đời sách giáo khoa, chỉ cách Tấm Cám của năm 2005 có hai năm, năm 2003, GS Chu Xuân Diên cho biết, nỗi ám ảnh về sự trả thù của Tấm còn lớn hơn khi người biên soạn SGK Ngữ Văn 10 không dám đưa một dòng nào về cái kết của truyện.

Tấm Cám dừng lại ở việc vua đón Tấm về cung và hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc. Theo một số nhà giáo, khi cắt bỏ hoàn toàn đoạn kết, có lẽ người biên soạn muốn xây dựng hình ảnh cô Tấm, một trong những biểu tượng của con người Việt Nam thật sự hoàn mỹ với lòng nhân hậu, vị tha.



Số phận long đong của truyện cổ tích Tấm Cám còn là sự ra vào chương trình Ngữ Văn của phổ thông đến chóng mặt. Có lẽ trong các tác phẩm văn học được đưa vào nhà trường, ít có tác phẩm nào chìm nổi như Tấm Cám, đặc biệt là trong suốt hơn 20 năm trở lại đây.



PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cho biết: “Từ những năm 1980, GS Hoàng Ngọc Hiến đã đặt vấn đề: cái kết của Tấm Cám có thể phản tác dụng giáo dục vì cô Tấm ác quá.

Cũng có thể vì lý do này hoặc vì lựa chọn của tác giả sách giáo khoa sau đó mà chương trình cải cách giáo dục những năm 1980 đã bỏ truyện Tấm Cám, không đưa vào chương trình phổ thông nữa.”



“Tuy nhiên, Tấm Cám đã trở lại SGK, đó là thời chúng tôi học lớp 6, lớp 7 vào khoảng những năm 1992-1994 với cái kết đầy đủ”- một giáo viên dạy Văn cho biết thêm.



Chưa an phận với hình hài nguyên vẹn theo bản kể Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi được bao lâu, đến năm 1995-1996, phần viết về Văn học dân gian trong SGK chỉnh lý, môn Văn đã lại đánh bật Tấm Cám ra khỏi SGK.
Nhà giáo, nhà nghiên cứu Văn học dân gian Nguyễn Xuân Lạc đã đặt câu hỏi: “Đoạn trả thù của Tấm ở cuối truyện có thể gây cho học sinh chấn thương về tình cảm chăng ?”. Ngày đó, ông thể hiện một băn khoăn:
“Lẽ nào lại bỏ đi một câu truyện từ lâu đã trở thành niềm say mê, thích thú, ước mơ đẹp đẽ của tuổi thơ... chỉ vì một chi tiết trả thù ở cuối truyện?”



Theo thời gian, vì cái kết, số phận truyện cổ tích Tấm Cám cũng ba chìm bảy nổi như chính nhân vật chính của nó. Vòng quay luẩn quẩn: bỏ/không bỏ, cắt/ không cắt thường được giải thích vì mục đích giáo dục, cần chỉnh sửa hoặc lược bỏ.
Tuy nhiên, sự vào ra của Tấm Cám trong SGK chưa bao giờ thống nhất.



Trong khi đó, giới nghiên cứu văn học và văn hóa dân gian, nhiều nhà nghiên cứu vẫn đang đi tìm cái gốc thực, cô Tấm nguyên thủy của truyện Tấm Cám, khi biết rõ bản kể của hai nhà nghiên cứu và sưu tầm văn học Nguyễn Đổng Chi và Vũ Ngọc Phan là kết quả của những biến đổi lớn từ các bản kể của Đỗ Thận (1907), G.Jeanneau (1886).


Các SGK vẫn giữ nguyên cách viết: chỉ đưa một bản duy nhất, không giới thiệu thêm dị bản để học sinh có thể tự gợi mở, tự đánh giá và lựa chọn Tấm Cám cho mình.


Sự thừa nhận mang tính chính thống này một lần nữa khiến dư luận quay cuồng đi lựa chọn cô Tấm trong thời hiện đại.


Có độc giả cho rằng, phải chăng truyện Tấm Cám từ bản kể của Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi nên được gọi là truyện cổ tích hiện đại, ẩn chứa tư tưởng của con người hiện đại vì chính các tác giả đã sinh ra một cô Tấm có sự phát triển tính cách duy nhất trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam?



Bên cạnh đó, đối tượng tiếp nhận- học sinh- người mà các nhà biên soạn sách “sợ” ảnh hưởng và chịu tác động nhiều nhất lại chưa bao giờ được khảo sát để đánh giá khách quan.



Nguyễn Hường